Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 6 Thọ Ký

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7605)
Phẩm 6 Thọ Ký

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không


PHẨM 6 THỌ KÝ


Thọ ký có nghĩa là trao nhận. Tức là đức Phật biết người đệ tử công hạnh tu hành sắp viên mãn Ngài liền thọ ký cho vị đó sẽ thành Phật. Tùy theo công hạnhthời gian tu hành dài hoặc ngắn mà Phật thọ ký có sai biệt. Việc thọ ký của Phật giống như Thiền sư truyền tâm ấn cho đệ tử�. Khi trò ngộ đạo, chỗ thấy biết của trò ngang bằng chỗ thấy biết của thầy, thầy thấy như thế nào trò thấy như thế ấy, ngang đây thầy ấn chứng cho trò. Tôi ví dụ để quí vị tạm hiểu, ông cha có một đứa con đi học, đứa bé thông minh học giỏi thường đứng đầu lớp, mỗi năm học mỗi lên lớp, hết cấp tiểu học lên trung học rồi lên đại học. Nếu nó chuyên ngành khoa học và vẫn học giỏi dẫn đầu lớp, có người hỏi con ông chừng nào ra trường. Ông trả lời bốn năm nó sẽ tốt nghiệp Cử nhân khoa học. Nếu nó chuyên ngành Y khoa và cũng đứng đầu lớp thì ông cũng trả lời bảy năm nó sẽ tốt nghiệp Tiến sĩ y khoa. Sở dĩ ông cha dám nói như vậy là vì ông biết khả năng của con mình. Ngược lại nếu đứa con học bình thường, hay ngồi lại lớp thì ông cha không dám nói khẳng định như thế. Cũng vậy, ở đây hàng đệ tử Phật đã trình bày chỗ thấu suốt lý Phật dạy, phiền não đã sạch và đã chứng A-la-hán. Bấy giờ các ngài hướng về Phật, nhận ra Tri kiến Phật để tu, không còn nghi ngờ nên ngang đây đức Phật thọ ký cho sẽ thành Phật.

Phẩm Tự nói tổng quát toàn bộ kinh. Phẩm Phương Tiện, Phật nêu lên bản hoài của Phật ra đời là Khai Thị chúng sanh Ngộ Nhập Tri kiến Phật. Bấy giờ hội chúng chỉ có hàng thượng căn bậc thượng như ngài Xá-lợi-phất nhận ra Tri kiến Phật, còn hạng thượng căn bậc trung thì chưa nhận được. Vì vậy mà phẩm Thí Dụ, Phật dẫn dụ một cách rõ ràng chủ đích của Phật ra đời, thì hàng thượng căn bậc trung như ngài Ca-diếp, Tu-bồ-đề... mới ngộ được Phật tri kiến. Nên đến phẩm Tín Giải thì các ngài ra trình sở ngộ lên đức Phật. Đáng lý tới đây là Phật thọ ký, nhưng vì Phật thấy số người còn lại chưa thâm nhập nổi, nên Ngài nói thêm phẩm Dược Thảo Dụ, để cho thấy rõ thâm ý của Phật là bình đẳng giáo hóa, đưa mỗi người tiến tới chỗ cứu kính là thành Phật, chớ không để bất cứ một ai dừng ở một quả vị thấp nào. Rồi sau đó, Phật mới thọ ký cho những đệ tử trình sở ngộ như ngài Ma-ha Ca-diếp, Tu-bồ-đề... sẽ thành Phật.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xướng lời thế này: 

Ông Ma-ha Ca-diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Phật Thế Tôn, cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại Trang NghiêmPhật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp, không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng thẳng không có cao thấp, hầm hố gò nổng, đất bằng lưu-ly, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi sạch sẽ.

Bồ-tát trong nước đó đông vô lượng nghìn ức, các chúng Thanh văn cũng lại vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ trì Phật pháp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

2.-Bảo các Tỳ-kheo rằng:

Ta dùng mắt của Phật

Thấy ông Ca-diếp này

Ở nơi đời vị lai

Quá vô số kiếp sau

Sẽ được thành quả Phật,

Mà ở đời vị lai

Cúng dường và kính thờ

Đủ ba trăm muôn ức

Các đức Phật Thế Tôn.

Vì cầu trí huệ Phật

Mà tịnh tu phạm hạnh

Cúng dường đấng Tối thượng

Nhị Túc Tôn xong rồi

Tu tập trọn tất cả

Trí huệ bực Vô thượng

Ở nơi thân rốt sau

Được chứng thành làm Phật.

Cõi đó rất thanh tịnh

Chất lưu-ly làm đất

Nhiều thứ cây bằng báu

Thẳng hàng ở bên đường

Dây vàng giăng ngăn đường

Người ngó thấy vui mừng

Thường thoảng ra hương thơm

Rải các thứ hoa đẹp

Các món báu kỳ diệu

Dùng để làm trang nghiêm

Cõi đó đất bằng thẳng

Không có những gò hầm.

Các hàng chúng Bồ-tát

Đông không thể xưng kể

Tâm các vị hòa dịu

Đến được thần thông lớn

Phụng trì các kinh điển

Đại thừa của các Phật

Các hàng chúng Thanh văn

Vô lậu thân rốt sau

Là con của Pháp vương

Cũng chẳng thể kể hết

Nhẫn đến dùng thiên nhãn

Cũng chẳng thể đếm biết.

Phật đó sẽ sống lâu

Tuổi mười hai tiểu kiếp

Chánh pháp trụ ở đời

Đủ hai mươi tiểu kiếp

Tượng pháp trụ ở đời

Cũng hai mươi tiểu kiếp

Đức Quang Minh Thế Tôn

Việc của Ngài như thế.

GIẢNG:

Sau khi các Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tu-bồ-đề... trình sở ngộ, đức Phật liền thọ ký cho các ngài thành Phật. Trước thọ ký cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp đời vị lai sẽ được thành Phật đầy đủ mười hiệu và đủ ba mươi hai tướng tốt. Ngài phụng thờ ba trăm muôn ức đức Phật mới thành Phật. Chúng ta thấy thời gian tu hành của ngài Ca-diếp quá lâu, mà Ngài được thọ kývui mừng thấy mình được điều chưa từng có. Điều này nói lên tâm hạnh của Bồ-tát có khác với tâm hạnh của phàm phu.

Sau khi thành Phật, tuổi thọ của Ngài đến mười hai tiểu kiếp, một tiểu kiếp là 16.800.000 năm. Tính ra đến 201.600.000 năm. Sống quá lâu! Còn cõi nước thì đất bằng phẳng trang nghiêm đẹp đẽ toàn bằng đồ báu không có dơ bẩn, không có cực khổ. Đồ đệ toàn là hàng Bồ-tát, La-hán nhiều vô lượng vô biên. Sở dĩ Tôn giả Ca-diếp khi thành Phật mà được chánh báo y báo tốt đẹp lớn lao như vậy, là nhờ công phu tu hành giáo hóa chúng sanh lâu dài và nhiều vô kể. Nhân thế nào thì quả thế ấy, nhân lớn thì quả phải to.

Phật thọ ký cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sau khi thành Phật, số Bồ-tát Ngài độ được có tới ngàn muôn ức, Thanh văn cũng vô số. Một vị Bồ-tát khi thành Phật, không có đơn độcmột mình, như đức Thích-ca khi thành Phật bên cạnh Ngài có rất nhiều Bồ-tát, La-hán, Thanh văn. Những đồ đệ đó đều là những người đã có túc duyên nhiều đời nhiều kiếp với Ngài, chớ không phải chỉ có duyên một đời này. Như vậy những đệ tử Bồ-tát, Thanh văn, La-hán trước kia là những người phàm, khi Phật còn làm Bồ-tát giáo hóa họ tu; thầy tiến lên thành Phật, trò cũng tiến lên thành Bồ-tát, La-hán.

Chúng ta thấy tất cả Bồ-tát được Phật thọ ký, vị nào cũng có đồ đệ đông như vậy. Vì rằng một vị tu hành từ khi mới phát tâm tu, cho tới ngày thành Phật, là đời đời giáo hóa chúng sanh và cũng tiếp tục gặp lại nhau ở nơi này hay ở nơi khác, những người này là hàng Bồ-tát, hàng Thanh văn câu hội về quốc độ của Phật. Như vậy, không có nghĩa tu một đời tâm hạnh bị mất, nếu phát tâm chân chánh, tu hành đứng đắn thì đời này mới tu duyên phước còn mỏng thì độ ít, đời sau tiếp tục tu nữa và giáo hóa nhiều hơn, đời sau nữa tiếp tục công hạnh cũ, như thế mà tiếp tục cho đến khi thành Phật, thì quyến thuộc là Bồ-tát, Thanh văn cũng đông vầy. Thế nên chúng ta không thể lo tu một mình để cầu mau thành Phật, thiếu phần giác tha thì công hạnh chưa viên mãn làm sao thành Phật được. Để thấy tinh thần kinh Pháp Hoa là Bồ-tát đời đời thực hiện bản nguyện nối tiếp thắp sáng ngọn đuốc Phật pháp cho chúng sanh, đến khi công hạnh viên mãn mới thành Phật, và chúng sanh được giáo hóa cũng thành Bồ-tát và La-hán câu hội về quốc độ của các ngài. Phần trùng tụng lặp lại ý trên.

CHÁNH VĂN:

3.- Lúc bấy giờ, ngài Đại Mục-kiền-liên, ngài Tu-bồ-đề, ngài Đại Ca-chiên-diên v.v... thảy đều run sợ một lòng chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:

Thế Tôn rất hùng mãnh

Pháp vương trong dòng Thích

thương xót chúng con

Mà ban giọng tiếng Phật.

Nếu rõ thâm tâm con

Được Phật thọ ký cho

Như dùng cam lồ rưới

Từ nóng được mát mẻ.

Như từ nước đói đến

Bỗng gặp cỗ tiệc vua

Còn ôm lòng nghi sợ

Chưa dám tự ăn liền

Nếu lại được vua bảo

Vậy sau mới dám ăn,

Chúng con cũng như vậy

Hằng nghĩ lỗi Tiểu thừa

Chẳng biết làm thế nào

Được huệ Vô thượng Phật,

Dầu nghe giọng tiếng Phật

Nói chúng con thành Phật

Còn ôm lòng lo sợ

Như chưa dám tự ăn 

Nếu được Phật thọ

Mới là khoái an vui

Thế Tôn rất hùng mãnh

Thường muốn an thế gian

Xin thọ ký chúng con

Như đói cần bảo ăn.

GIẢNG: 

Còn ba vị chưa được thọ ký là ngài Ma-ha Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên nên các Ngài run sợ, chấp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật. Vì bốn vị cùng là bạn, trình độ học tu ngang nhau, một trong bốn vị được thọ ký thành Phật, lúc đó ba người còn lại cả mừng hóa thành hoảng hốt, bởi hoảng hốt nên run sợ. Thế nên các Ngài mới trình bày tâm trạng của các Ngài:

Nếu rõ thâm tâm con

Được Phật thọ ký cho

Như dùng cam lồ rưới

Từ nóng được mát mẻ.

Tâm các Ngài đang nóng nảy, hồi hộp, lo sợ không biết có được Phật thọ ký không. Nếu bấy giờ được Phật thọ ký thì như được rưới nước cam lồ khiến cho tâm các Ngài được mát mẻ, êm ả, không còn hồi hộp lo sợ nữa.

Kế đến các Ngài lại nói thêm:

Như từ nước đói đến

Bỗng gặp cỗ tiệc vua

Còn ôm lòng nghi sợ

Chưa dám tự ăn liền

Nếu lại được vua bảo

Vậy sau mới dám ăn.

Các Ngài dụ các Ngài như ở nước đói đến gặp tiệc vua ban đủ thức ăn sang trọng bày la liệt trên bàn, lòng còn lo sợ chưa dám ăn liền, vì chưa được mời ăn. Nếu được vua bảo, thì các Ngài mới dám ăn. Thí dụ này nói lên ý nghĩa các Ngài đã được cái thấy biết mà huynh đệ các ngài như Tôn giả Xá-lợi-phất, Ma-ha Ca-diếp đã được, nhưng chưa dám tin rằng mình sẽ được thọ ký thành Phật. Nay nếu được Phật thọ ký thì tâm các Ngài mới an, mới tin chắc.

Các Thiền sư cũng có tâm trạng như các Tôn giả ở đây. Như ngài Vĩnh Gia Huyền Giác do xem kinh Duy-ma-cật mà ngộ đạo, Ngài biết rõ mình đã thông suốt được lý Thiền, nhưng chưa được bậc Tôn túc nào ấn chứng, nên thể theo lời đề nghị của Thiền sư Huyền Sách đến Lục Tổ cầu xin ấn chứng. Sau khi được Lục Tổ ấn chứng, Ngài mới dám nói lên chỗ chứng đạo của mình qua bài Chứng Đạo Ca. Nếu chưa được ấn chứng vẫn còn hồ nghi. Đó là tâm niệm của người xưa và người gần đây không khác nhau. Những đồ đệ của đức Phật khi xưa khao khát được Phật thọ ký như thế nào, thì các Thiền sư sau này khao khát được thầy ấn chứng cũng như vậy. Vì vậy sau khi các Thiền sư ngộ đạo rồi, đi tìm thiện hữu tri thức trình sở ngộ và cầu xin ấn chứng để an ổntiến tu.

CHÁNH VĂN:

4.- Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn, bảo các thầy Tỳ-kheo rằng: 

  • · Ông Tu-bồ-đề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm muôn ức na-do-tha đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ-tát, ở thân rốt sau được thành Phật hiệu: Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Kiếp đó tên Hữu Bửu, nước đó tên là Bửu Sanh. Cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu-ly, cây báu trang nghiêm, không có những gò, hầm, cát, sỏi, gai, chông cùng tiện lợi dơ dáy, hoa báu trải khắp nơi sạch sẽ, nhân dân cõi đó đều ở đài báu và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ-tát đông vô số nghìn muôn ức na-do-tha.

Đức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, đức Phật đó thường ở trên hư không vì chúng nói pháp độ thoát được vô lượng Bồ-tát cùng chúng Thanh văn.

Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

 5.- Các chúng Tỳ-kheo nầy!

Nay ta bảo các ông 

Đều nên phải một lòng

Lóng nghe lời ta nói

Đệ tử lớn của ta

Là ông Tu-bồ-đề

Rồi sẽ được làm Phật

Hiệu gọi là Danh Tướng

Sẽ phải cúng vô số

Muôn ức các đức Phật

Theo hạnh của Phật làm

Lần lần đủ đạo lớn

Thân rốt sau sẽ được

Ba mươi hai tướng tốt

Xinh lịch đẹp đẽ lắm

Dường như núi báu lớn

Cõi nước của Phật đó

Trang nghiêm sạch thứ nhứt

Chúng sanh nào được thấy

Không ai chẳng ưa mến.

Phật ở trong cõi đó

Độ thoát vô lượng chúng.

Trong pháp hội của Phật

Các Bồ-tát đông nhiều

Thảy đều bực lợi căn

Chuyển pháp luân bất thối.

Cõi nước đó thường dùng

Bồ-tát để trang nghiêm

Các chúng Thanh văn lớn

Chẳng có thể đếm kể

Đều được ba món minh

Đủ sáu thứ thần thông

Trụ tám pháp giải thoát

oai đức rất lớn.

Đức Phật đó nói pháp

Hiện ra vô lượng món

Pháp thần thông biến hóa

Chẳng thể nghĩ bàn được.

Các hàng trời, nhân dân

Số đông như Hằng sa

Đều cùng nhau chắp tay

Lóng nghe lãnh lời Phật

Đức Phật đó sẽ thọ

Tuổi mười hai tiểu kiếp

Chánh pháp trụ lại đời

Đủ hai mươi tiểu kiếp

Tượng pháp trụ ở đời

Cũng hai mươi tiểu kiếp.

GIẢNG:

Đức Phật thọ ký cho ngài Tu-bồ-đề sau này sẽ thành Phật hiệu là Danh Tướng, kiếp tên Hữu Bửu, cõi nước tên Bửu Sanh, cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu-ly, cây báu trang nghiêm, hàng đồ đệ toàn là Thanh văn, Bồ-tát đông vô số không thể tính kể. Sự kiện này cho chúng ta thấy, làm việc lợi sanh được phần công đứctích tụ thành một hạt lưu-ly, làm vô số công đức thanh tịnh trải qua nhiều đời nhiều kiếp, thì tụ thành cả quốc độ toàn là lưu-ly thanh tịnh theo như công hạnh tu hành của mình. Đó là do tinh thần độ sanh không giới hạn, nếu công hạnh viên mãn thì thành Phật. Nếu công hạnh chưa viên mãn mà muốn thành Phật sớm thì cõi nước không thanh tịnh, tuổi thọ không lâu dài, đồ đệ chưa phải là hàng Thánh. Ở đây đức Phật nói “Phật Danh Tướng thường ở trên hư không vì chúng nói pháp độ thoát được vô lượng Bồ-tát cùng chúng Thanh văn”. Tại sao Phật Danh Tướng lại nói pháp ở trên hư không? Như chúng ta biết, ngài Tu-bồ-đề tu hạnh quán lý Không, nên được Phật khen là Giải không bậc nhất trong hội chúng. Do ngộ được lý Không nên khi nói pháp Ngài nói về lý Bát-nhã Chân không. Vì vậy mà nói Ngài ở trên hư khôngchúng sanh nói pháp.

CHÁNH VĂN:

6.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ-kheo: 

Ta nay nói với các ông, ông Đại Ca-chiên-diên này ở đời sẽ tới, dùng các đồ cúng mà cúng dường phụng thờ tám nghìn ức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn do-tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm do-tuần, tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp lại thành cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương hoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan v.v...

Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật hiệu: Diêm-phù-na-đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la. Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh văn và Bồ-tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Đức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.

Lúc đó Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

7.-Các chúng Tỳ-kheo này!

Đều nên một lòng nghe

Như lời của ta nói

Chân thiệt không khác lạ.

Ông Ca-chiên-diên này

Sau sẽ dùng các món

Đồ cúng dường tốt đẹp

cúng dường các Phật.

Các đức Phật diệt rồi

Dựng tháp bằng bảy báu

Cũng dùng hoa và hương

Để cúng dường xá-lợi.

Thân rốt sau của ông

Được trí huệ của Phật

Thành bực Đẳng Chánh Giác

Cõi nước rất thanh tịnh

Độ thoát được vô lượng

Muôn ức hàng chúng sanh

Đều được mười phương khác.

Thường đến kính cúng dường,

Ánh sáng của Phật đó

Không ai có thể hơn

Đức Phật đó hiệu là:

Diêm-phù Kim Quang Phật

Bồ-tát và Thanh văn

Dứt tất cả hữu lậu

Đông vô lượng vô số

Trang nghiêm cõi nước đó.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-chiên-diên cũng được Phật thọ ký. Do tu hạnh Bồ-tát cung kính cúng thờ tới tám ngàn ức Phật, sau Phật diệt độ lại xây tháp miếu cúng dường. Sau lại cúng dường hai muôn ức Phật cũng như trước, công hạnh viên mãn sẽ thành Phật hiệu Diêm-phù-na-đề Kim Quang, quốc độ bằng phẳng, đất bằng pha lê, trang nghiêm bằng cây báu... Sở dĩ Bồ-tát ra đời gặp Phật là vì các ngài tu hạnh Bồ-tát, mà Bồ-tát là nhân mà Phật là quả, nên ra đời đều gặp Phật. Nơi nào có Phật là có các ngài gần gũi tôn trọng cúng dườngtu học. Trải qua thời gian lâu dài công hạnh viên mãn, thì thành Phật cõi nước đẹp đẽ trang nghiêm.

CHÁNH VĂN:

8.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo trong đại chúng

Ta nay nói với các ông, ông Đại Mục-kiền-liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám nghìn các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu cao một nghìn do-tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do-tuần, dùng bảy món báu: vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp lại thành. Đem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp. 

Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như trước, rồi sẽ được thành Phật hiệu: 

Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Kiếp đó tên là Hỉ Mãn, nước tên là Ý Lạc, cõi đó bằng thẳng, chất pha lê làm đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông, Bồ-tát và Thanh văn số nhiều vô lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, chánh pháp trụ lại đời bốn mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ bốn mươi tiểu kiếp.

Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

9.-Đệ tử của ta đây

Là Đại Mục-kiền-liên

Bỏ thân người nầy rồi

Sẽ được gặp tám nghìn

Hai trăm muôn ức vị

Các đức Phật Thế Tôn.

Ông vì cầu Phật đạo

Nên cúng dường cung kính

Ở nơi các đức Phật

Thường tu trì phạm hạnh

Ở trong vô lượng kiếp

Phụng trì pháp của Phật.

Các đức Phật diệt rồi

Xây tháp bằng bảy báu

Tháp vàng rất cao rộng,

Dùng hoa hương kỹ nhạc

Để dùng dưng cúng dường

Tháp miếu các đức Phật.

Lần lần được đầy đủ

Đạo hạnh Bồ-tát rồi

Ở nơi nước Ý Lạc

Mà được thành quả Phật

Hiệu là Đa-ma-la

Bạt Chiên-đàn Hương Phật

Đức Phật đó thọ mạng

Hai mươi bốn tiểu kiếp

Thường vì hàng trời, người

Mà diễn nói đạo Phật

Chúng Thanh văn vô lượng

Như số cát sông Hằng

Đủ ba minh, sáu thông

Đều có oai đức lớn

Bồ-tát đông vô số

Chí bền lòng tinh tấn

Ở nơi trí huệ Phật

Đều không hề thối chuyển.

Sau khi Phật diệt độ

Chánh pháp sẽ trụ đời

Đủ bốn mươi tiểu kiếp

Tượng pháp cũng như thế.

10.-Các đệ tử của ta

Bực oai đức đầy đủ

Số đó năm trăm người

Ta đều sẽ thọ ký

Ở nơi đời vị lai

Đều được chứng thành Phật

Ta cùng với các ông

Đời trước kết nhân duyên

Ta nay sẽ thuật nói

Các ông khéo lóng nghe.

 

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Mục-kiền-liên được Phật thọ ký sau này sẽ thành Phật hiệu là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Như Lai, kiếp tên Hỉ Mãn, nước tên Ý Lạc... cũng do tu hạnh Bồ-tát, phụng thờ vô số đức Phật công hạnh viên mãn mới được thành Phật.

Sau khi thọ ký cho bốn vị đại đệ tử xong, Phật hứa rằng năm trăm vị đại đệ tử của Phật tuần tự sẽ được thọ ký. Không riêng gì đối với đệ tử lớn mà những vị nhỏ, có khả năng tin thọ lời Phật dạy là được Phật bình đẳng thọ ký cho. Đây là một lốiấn chứng cho đệ tử đủ lòng tinan tâm tiến tu không lui sụt.

Qua phẩm Thọ Ký chúng ta thấy cõi nước của các vị Phật tương lai, cõi nào cũng bằng phẳng, đất thì bằng vàng, bằng lưu-ly, trang nghiêm bằng bảy báu, đồ đệ là hàng Bồ-tát, Thanh văn vô số. Tuổi thọ của Phật thì rất lâu, chánh pháp, tượng pháp cũng lâu... Rồi chúng ta nghiệm lại đức BổnThích-ca Mâu-ni cũng là một vị Phật, tại sao cõi Ta-bà của Ngài toàn là gò nổng, đất bùn sình nhơ nhớp, chúng sanh ở cõi này thì nhiều khổ đau phiền não, đồ đệ thuộc hàng Bồ-tát, Thanh văn chỉ có một ngàn hai trăm năm mươi vị? Còn tuổi thọ của Ngài chỉ có tám mươi tuổi, chánh pháp của Ngài trụ thế có năm trăm năm, tượng pháp một ngàn năm?

Đức Phật Thích-ca sanh ở cung vua Tịnh Phạn xứ Ấn Độ giáo hóa cõi Ta-bà này là Phật ứng thân; chúng sanh ở cõi Ta-bà này vô minh nghiệp chướng sâu dày, phước mỏng, thì chánh báoy báo của họ dĩ nhiên là thô xấu bất tịnh. Phật vì từ bi tùy duyên ứng thân ở cõi này để cứu độ họ. Ví dụ như người ở thủ đô giàu có, ăn cao lương mỹ vị, ở nhà lầu đi xe hơi, sống rất sung túc sang trọng. Người đó thấy dân miền sơn cước quê dốt, thiếu ăn thiếu mặc, tình nguyện đến đó để hướng dẫn dân miền này biết chữ, biết nghề nghiệp làm cho đủ cơm ăn áo mặc. Khi người thủ đô đến miền sơn cước ở thì đời sống của họ cũng đạm bạc không tiện nghi, vì chỗ ở này là chỗ ở tạm. Cũng vậy, đức Thích-ca ra đời ở cõi Ta-bà này là một chặng hóa thân của Ngài để hóa độ. Cõi này là cõi tạm, Ngài ở một thời gian ngắn Ngài đi, nên tuổi thọ không dài. Còn cõi nước không thanh tịnh trang nghiêm, vì chúng sanh cõi này đa phần phước mỏng nghiệp dày nên cũng có các y báo chung như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19820)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28933)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20652)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19397)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30453)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36388)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33177)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35503)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20941)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21903)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25236)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25764)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31230)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18548)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25120)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23750)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28903)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31425)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25522)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29689)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25695)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23247)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23712)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23332)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22422)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22063)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23492)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16947)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23269)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41058)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18961)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20460)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27706)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38082)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34045)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36764)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23972)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29160)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60110)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27576)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68687)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24489)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24453)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22660)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26328)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26503)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20783)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20032)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27532)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46371)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53541)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23583)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21067)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25543)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29225)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant