Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7626)
Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không 

Trong đại hộithiên nữ Như ý bảo quang diệu, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết diệu pháp sâu xa, thì hoan hỷ, phấn chấn, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho chúng con cách tu hành về diệu pháp sâu xa. Thiên nữ nói lời chỉnh cú sau đây.

Đấng Soi thế giới! 
đấng Lưỡng túc tôn! 
đấng Tối thắng nhất! 
con xin hỏi Ngài 
về cách bồ tát 
tu hành chính xác
Xin Ngài từ bi 
cho phép con hỏi. 
Đức Thế tôn dạy, thiện nữ thiên, có điều gì nghi hoặc thì tùy ý mà hỏi. Như lai sẽ giảng giải cho. Thiện nữ thiên liền thỉnh vấn đức Thế tôn, rằng

Các vị bồ tát 
làm sao tu hành 
bồ đề chánh hạnh
rời cả sinh tử 
cùng với niết bàn 
mà lợi mình người? 
Đức Thế tôn dạy, thiện nữ thiên, hãy dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu bình đẳng hạnh. Dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu bình đẳng hạnh là thế nào? Là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Pháp tánhngũ uẩn. Nhưng ngũ uẩn với pháp tánh không thể nói tức, cũng không thể nói rời. Nếu nói pháp tánh tức ngũ uẩn thì thế là đoạn kiến, nếu nói pháp tánh rời ngũ uẩn thì thế là thường kiến. Phải rời cả hai khái niệm, không vướng hai cực đoan, không thể thấy, vượt trên sự thấy, không danh từ, không ấn tượng, như thế mới là nói về pháp tánh.

Thiện nữ thiên, chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh là thế nào? Là xét ngũ uẩn không do yếu tố tương quan mà phát sinh. Nếu nói do yếu tố mà phát sinh, thì đã sinh mà sinh, hay chưa sinh mà sinh? Nếu nói đã sinh mà sinh thì cần gì yếu tố? Nếu nói chưa sinh mà sinh thì sự sinh ấy không thể có được. Chưa sinh là không có, không có danh từ, không có khái niệm, không phải tính toán hay ví dụ mà diễn tả được, vì đâu phải là cái do yếu tố tương quan mà sinh ra. Thiện nữ thiên, hãy nói như tiếng trống: do gỗ, do da, do dùi, do tay, do đủ thứ mới có tiếng phát ra. Tiếng ấy quá khứ đã không có, vị lai sẽ không có, hiện tại cũng không có. Tại sao, vì tiếng ấy không do gỗ mà có, không do da mà có, không do dùi do tay mà có, không có cả trong ba thì gian, thì thế là không sinh. Không sinh thì không diệt. Không diệt thì không đến từ đâu. Không đến từ đâu thì không đi đến đâu. Không đi đến đâu thì phi thường phi đoạn. Phi thường phi đoạn thì phi nhất phi dị. Nếu là nhất thì không khác pháp tánh, mà nếu thế thì phàm phu đáng lẽ thấy được pháp tánh, được niết bàn tối thượng an lạc; nhưng đã không phải như vậy thì biết phi nhất. Nếu là dị thì chư vị Như lai và chư vị Bồ tát thi hành toàn là chấp trước, chưa được giải thoát, không chứng bồ đề; nhưng đối với thánh giả thì cái ngũ uẩn chuyển biến với cái pháp tánh phi chuyển biến đồng là thật tánh, thế nên phi dị. Do vậy mà biết ngũ uẩn phi hữu phi vô, phi do yếu tố phát sinh, phi không do yếu tố phát sinh, và là cái thánh trí biết đến, không phải lĩnh vực của người khác; lại là cái không phải ngôn ngữ diễn tả, không danh từ, không khái niệm, không nhân tố, không duyên tố, không thể ví dụ, đầu cuối vắng lặng, xưa nay tự không. Như thế đó gọi là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Thiện nữ thiên, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu vô thượng bồ đề thì phải phi chân phi tục, vượt quá suy lường, phàm cảnh thánh cảnh phi nhất phi dị, [nói tóm], không bỏ tục, không rời chân, thì đó là dựa pháp tánh mà hành bồ đề.

Đức Thế tôn dạy như vậy rồi, thiện nữ thiên phấn chấn hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, nhất tâm đảnh lễ, mà thưa, bạch đức Thế tôn, đúng như lời Ngài đã huấn dụ về bồ đề hạnh, con nguyện xin tu học.

Bấy giờ đại phạn thiên vương chủ của thế giới hệ Sách ha, ở trong đại hội, hỏi thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu, rằng bồ đề hạnh như vậy thật khó tu tập, thiện nữ làm sao tự tại được với bồ đề hạnh ấy? Thiện nữ thiên nói, đại phạn vương, như lời Thế tôn huấn dụ thì thật sâu xa, chúng sinh khó mà nhận thức, vì đó là lĩnh vực của thánh giả, nhiệm mầu, khó biết. Nhưng, đối với diệu pháp ấy tôi sống được yên vui trong đó, nếu lời này mà thật thì ước nguyện toàn thể chúng sinh trong cái thời kỳ đầy cả năm thứ dơ bẩn này đều thành màu hoàng kim, đủ ba mươi hai tướng tốt, phi nam phi nữ, ngồi tòa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui, thiên hoa tự mưa xuống, thiên nhạc tự tấu lên, mọi cách hiến cúng đầy đủ tất cả. Thiện nữ thiên nói rồi, tất cả chúng sinh trong thời kỳ đầy cả năm thứ vẩn đục này đều thành màu hoàng kim, đủ tướng đại trượng phu, phi nam phi nữ, ngồi tòa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui y như Tha hóa tự tại thiên cung, không mọi đường dữ, cây ngọc có hàng có lối, hoa sen bảy chất liệu quí đầy cả thế giới, lại mưa xuống thiên hoa bảy chất liệu quý rất đẹp, thiên nhạc tấu lên. Và thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu thì biến thể nữ thân thành thân đại phạn vương. Bấy giờ đại phạn vương hỏi thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu, ngài hành bồ đề hạnh như thế nào? Thiện nữ thiên nói, đại phạn vương, như trăng dưới nước hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như chiêm bao hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như sóng nắng hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như tiếng vang hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh. Đại phạn vương nghe nói như vậy thì thưa rằng, kính bạch bồ tát, ngài dựa vào ý nghĩa nào mà nói như vậy? Thiện nữ thiên trả lời, đại phạn vương, không một pháp nào là thực tại, toàn do yếu tố tương quan mà thành. Đại phạn vương nói, nói như ngài thì phàm phu lẽ đáng được vô thượng bồ đề cả! Thiện nữ thiên nói, ngài nói như vậy là với ý gì? [Ngài nên biết, phàm phu thì cho] người ngu khác, người trí khác, bồ đề khác, phi bồ đề khác, giải thoát khác, phi giải thoát khác; nhưng, đại phạn vương, [thánh giả thì thấy] các pháp như vậy bình đẳng không khác, biết pháp tánh chân như phi nhất phi dị, cũng không có cái trung tính để mà chấp trước, bất tăng bất giảm. Đại phạn vương, như nhà ảo thuậtđồ đệ của mình, rất rành ảo thuật, đến chỗ ngã tư, dùng những vật liệu cát đất cỏ cây vân vân, gom lại một chỗ mà làm ảo thuật. Làm cho người ta thấy những voi, những ngựa, những xe, vân vân, thấy đống bảy loại quí báu, thấy kho lẫm tràn đầy. Rồi kẻ khờ khạo không biết suy xét, không hiểu ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng cho là thật, voi thật ngựa thật vân vân, và chỉ thế là thật, ngoài ra là dối cả, sau đó không còn suy xét gì nữa. Còn người hiểu biết thì trái lại, biết cái gốc ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng nghĩ, những thứ ta thấy, thấy voi thấy ngựa vân vân, toàn là giả cả, chỉ do ảo thuật mê hoặc mắt người, vọng cho là voi, là lẫm, nhưng chỉ có tên, không có thật, nên cái ta thấy nghe không nên chấp là thật, sau đó càng xét biết là dối trá. Do vậy, trí giả thì biết các pháp không thật, chỉ do thế nhân thấy gì nghe gì thì nói ra như thế, chứ xét cho kyՠthì không phải như thế. Và như thế thì cũng do nói giả mà xét ra nghĩa thật. Đại phạn vương, chúng sinh chưa có mắt tuệ của các vị thánh giả, chưa biết chân như của các pháp là không thể nói, nên thấy hay nghe cái pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến thì tư duy y theo thấy nghe và chấp cho là thật; trong chân đế, họ không thể thấu hiểu chân như các pháp là không thể nói. Còn các vị thánh giả thấy hay nghe cái pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến, thì tùy trí lựckhông chấp là thật có, thấu hiểu tất cả không có gì là hữu vi chuyển biến, không có gì là vô vi phi chuyển biến, chỉ vọng tưởngchuyển biến phi chuyển biến, chỉ có tên không có thật. Thế rồi các vị thánh giả ấy tùy tục đế mà nói cho người khác biết sự thật là như vậy. Đại phạn vương, các vị thánh giả sử dụng sự thấy biết của bậc thánh, thấu hiểu chân như là không thể nói, chuyển biến phi chuyển biến cũng như vậy, nhưng vì làm cho người khác cũng biết như vậy nên nói ra bao nhiêu dạng thức của danh ngôn tục đế. Bấy giờ đại phạn vương lại hỏi bồ tát Như ý bảo quang diệu, rằng có bao nhiêu chúng sinh hiểu được cái pháp sâu xa như thế này? Bồ tát nói, đại phạn vương, có tâm vươngtâm sở của những người được ảo thuật tạo ra biết được cái pháp sâu xa này. Đại phạn vương nói, người ảo thuật thì không thật có, vậy tâm vương tâm sở có từ đâu? Bồ tát nói, [lời tôi nói có nghĩa] nếu biết pháp tánh phi hữu phi vô, thì người ấy biết được nghĩa lý sâu xa này.

Đại phạn vương thưa đức Thế tôn, bạch Ngài, vị bồ tát Như ý bảo quang diệu này thật bất khả tư nghị, thông suốt đến như vậy đối với nghĩa lý cực kỳ sâu xa. Đức Thế tôn dạy, đúng như vậy, đại phạn vương, đúng như ông nói. Thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu đã từ lâu giáo huấn cho các người phát tâm tu học vô sinh pháp nhẫn. Đại phạn vương cùng với phạn chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, lạy ngang chân bồ tát Như ý bảo quang diệu mà nói như vầy, thật là hiếm có, ngày nay chúng tôi hạnh ngộ đại sĩ, được nghe pháp nghĩa đại sĩ nói. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương, vị thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu này, trong thì vị lai sẽ thành Phật đà, danh hiệu là Bảo diệm cát tường tạng, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời.

Khi đức Thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này thì có ba ngàn ức bồ tát không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, tám ngàn ức thiên tửvô số quốc vương cùng thần dân đều xa bụi bặm, rời dơ bẩn, được sự trong sáng của mắt pháp.

Bấy giờ trong đại hội có năm mươi ức Bí sô hành bồ tát hạnh mà muốn thoái chuyển bồ đề tâm, nhưng khi nghe bồ tát Như ý bảo quang diệu thuyết pháp như trên thì ai cũng được sự kiên định bất khả tư nghị, thỏa mãn ước nguyện tối thượng, phát lại bồ đề tâm, và cởi pháp y mà hiến lên bồ tát, phát lại cái chí thắng tiến tối thượng, và nguyện rằng bao nhiêu thiện căn của chúng tôi đều được không còn thoái chuyển, hồi hướng về vô thượng bồ đề. Đức Thế tôn nói với đại phạn vương, các vị Bí sô này do công đức này mà tu hành đúng như huấn dụ, qua chín mươi đại kiếp thì sẽ được chứng ngộ, thoát ly sinh tử. Đức Thế tôn liền thọ ký cho, rằng chư vị Bí sô, qua ba mươi vô số kiếp, chư vị sẽ được thành Phật đà, với thời kỳ tên Nan thắng quang vương, quốc độ tên Vô cấu quang. Chư vị đồng thời chứng đắc vô thượng bồ đề, đồng một danh hiệu Nguyện trang nghiêm gián sức vương, đủ mười đức hiệu.

Đại phạn vương, bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này ai chính xác nghe nhớ thì có uy lực rất lớn. Giả sử có ai tu hành sáu ba la mật trong trăm ngàn đại kiếp mà không có [sự nhận thức về Không làm] phương tiện, mặt khác, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào sao chép kinh Ánh sáng hoàng kim này, cứ mỗi nửa tháng đọc tụng chuyên chú, thì cái khối công đức này, công đức trước không bằng một phần trăm, đến nỗi toán số hay ví dụ cũng không đối chiếu được. Đại phạn vương, do vậy mà Như lai khuyến khích các người tu học, chánh niệm, thọ trì, tuyên thuyết phong phú. Tại sao, vì xưa kia, khi Như lai đi trên đường đi bồ tát thì, như dũng sĩ xung trận, Như lai không tiếc tính mạnglưu thông bản kinh vua chúa và nhiệm mầu này, tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích cho người. Đại phạn vương, luân vương còn thì thất bảo còn, luân vương mất thì thất bảo cũng tự nhiên mất theo. Cũng y như vậy, Đại phạn vương, kinh vua Ánh sáng hoàng kim này nếu còn thì pháp bảo tối thượng còn cả, nếu không còn thì pháp bảo cũng ẩn mất hết. Do vậy, đối với kinh vua này, các người phải chuyên tâm mà lắng nghe, mà ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích phong phú cho bao người khác, khuyến khích họ cũng sao chép và tu hành bằng sự tinh tiến ba la mật, không tiếc tính mạng, không nài mệt nhọc. Đó là công đức siêu việt trong các công đức. Là đệ tử của Như lai thì các người phải siêng năng tu học như vậy. Đại phạn vương với vô số phạn chúng, Đế thích cùng bốn vị Thiên vương với bộ chúng Dược xoa, tất cả đều từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cùng nhau nguyện giữ gìnquảng bá kinh Ánh sáng hoàng kim này, nguyện giữ gìn cho các vị pháp sư giảng nói kinh này. Có tai nạn gì chúng con cũng trừ khử, làm cho có đủ mọi sự cát tường, sắc tướngsức lực sung túc, hùng biện vô ngại, cơ thể và tâm trí đều thư thái cả. Và cả thính giả nữa cũng yên vui hết thảy. Quốc gia họ ở nếu bị đói khát, giặc giã, kẻ thù, quỉ thần, quấy rốitác hại thì chư thiên chúng con sẽ hộ trì cho. Dân chúng mà yên ổn, sung túc, không oan khuất, không tai họa, là do sức của chư thiên chúng con. Ai hiến cúng kinh này thì chúng con tôn kính hiến cúng y như đối với đức Thế tôn, không khác gì cả. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương, phạn chúng, cho đến bốn vị Thiên vương, cùng bộ chúng Dược xoa, lành thay, các người đã được nghe diệu pháp sâu xa, đối với kinh vua của diệu pháp ấy lại phát tâm hộ trì, hộ trì những ai thọ trì kinh ấy, thì các người đã đạt được cái phước thù thắngvô biên, mau chóng thành tựu vô thượng bồ đề. Đại phạn vương, và mọi người đồng đẳng, nghe những lời đức Thế tôn huấn dụ thì hoan hỷ, cung kínhtiếp nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19821)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28934)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20653)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19398)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30456)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36388)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33182)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35511)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20943)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21904)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25242)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25770)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31230)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18549)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25122)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23750)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28905)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31428)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25527)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29694)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25695)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23248)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23713)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23333)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22424)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22064)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23494)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16948)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23270)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41063)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18965)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20462)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27707)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38086)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34045)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36765)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23973)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29164)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60112)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27576)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68690)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24490)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24456)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22663)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26330)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26503)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20785)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20034)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27534)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46372)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53543)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23584)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21071)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25544)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29230)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant