Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 3

02 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7325)
Bài Thứ 3

KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Hoà Thượng Thích Thiện Hoa

 

Bài Thứ 3 
PHẦN CHÁNH TÔN (tt) 

7. Không nên chấp: "Thấy thân tướng của Phật là thấy được Phật".
8. Người tin được kinh này, là do đã trồng căn lành từ nhiều kiếp.
9. Người thọ trì kinh náy được công đức vô lượng
10. Giáo pháp của Phật cũng như chiếc thuyền đưa người qua bể khổ
11. Phật phá cái chấp "Như Lai có thành Phật và thuyết pháp".
12. Phật pháp không có sai khác, do trình độ của chúng sanh mà thấy có sai khác

7. KHÔNG NÊN CHẤP:"THẤY ĐƯỢC THÂN CỦA PHẬT LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT 

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như Lai chăng?". 

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch thế Tôn ! không thể cho thấy cái thân tướng của Ngài đó là thấy Như Lai. Tại sao vậy?_ Vì Như Lai nói: "Cái thân tướng này, không phải thật là thân tướng của Như Lai". 

Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thậ (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp). 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ nhứt, nói về việc thấy Phật. 

Trên đường tu hành, phải có đủ cả Sự và Lý. Nhờ Sự tướng bên ngoài, mới ngộ được lý tánh bên trong; có ngộ Lý tánh bên trong, mới thấy rõ được Sự tướng bên ngoài. 

Người chấp Lý mà bỏ Sự, cũng như người chỉ kể suông đủ các thức ăn caso lương mỹ vị, nhưng bụng vẫn đói. Người mê Sự mà bỏ Lý, cũng như trẻ con mê bánh vẽ. 

Nhờ có tượng cốt giả, kinh giấy, tăng phàm v.v...là sự tướng bên ngoài, để giúp chúng ta nhớ lại tìm cầu Phật thiệt, Pháp thiệt và Tăng thiệt trong tự tâm của chúng ta

Nếu bác bỏ Sự tướng bên ngoài là hư giả (không thờ Phật, tụng kinh v.v...) mà chỉ chấp suông về phần Lý tánh bên trong (Phật tức tâm), thì đức Phật nơi tâm ta cũng không làm sao biểu lộ ra được. 

Chư Tổ dạy: 

"Thật tế lý địa, bất thọ nhứt trần 

phật sự muôn trung, bất xả nhứt pháp". 

Nghĩa là: Về Phật tâm thanh tịnh, thì không có một nảy trần. Nhưng về phần Sự tướng tu hành, thì không thể bỏ qua một pháp nào. 

Trái lại, nếu chấp về Sự tướng (cầu Phật bên ngoài) mà không tìm Phật thiệt nơi tự tâm của mình, thì cũng không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên phật dạy: 

"Nếu người chấp: "thấy sắc thân của ta cho là thấy được Phật, nghe tiếng nói Pháp của ta cho là nghe được tiếng Phật", thì người đó đã đi lạc về đường tà, không bao giờ thấy được Phật". 

(KINH KIM CANG

Ngày xưa có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật. Đi đường xa hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước có sinh trùng, một vị giữ giới không uống nên chết giữa đường; một vị uống nước được sống, đi đến ra mắt Phật. 

Phật quở rằng: "Ông Tỳ kheo giữ giới kia tuy chết, nhưng ông vẫn sống và đã thấy ta rồi. Còn ông không giữ giới tuy sống, ở sát bên ta, nhưng thật ra ông đã chết và cách ta ngàn dặm". 

Tại sao, vị Tỳ kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy Phật, mà Phật lại cho "đã thấy được ta rồi"; trái lại, vị Tỳ kheo không giữ giới còn sống ở bên Phật thấy được Phật, mà Phật lại cho là "cách Phật ngàn dặm?". 

Cho biết, thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, chưa phải là thấy được phật; phải thấy "Phật tâm thanh tịnh" hay "pháp thân Phật" mới thật là thấy Phật. 

Song le, đa số chúng sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng, tìm ohật bên ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm đức Phật thiệt trong tâm của mình. Bởi thế nên cổ nhơn quở: "Phật trong nhà không thờ, mà thờ đức Phật Thích Ca ngoài đường" là vậy. 

Vì phá cái mê lầm này, nên Tổ Đơn Hà đốt một vị Phật gỗ (Phật giả). Có người hỏi ngài: "đốt để làm gì?"._ Ngài trả lời: "đốt để tìm xa lợi" (tìm Phật thiệt). Ông chủ chùa thấy vậy sợ khủng khiếp, nên rụng hết râu mày; vì huỷ kinh đốt Phật là tội rất nặng. 

sự kiện này, nên cổ nhơn có lám bài kệ

Nguyên văn (dịch âm): 

Đơn Hà thiêu mộc Phật 

Viện chủ lạc tu mi 

Nhứt trường kỳ đặc sự 

Thiên hạ thiểu nhơn tri 

Dịch nghĩa: 

Tổ Đơn Hà đốt Phật gỗ 

Ngài viện chủ rụng râu mày 

Một trường hợp rất đặc biệt 

Trong thiên hạ ít người biết. 

Trọng tâm trong đoạn văn này là hai chữ "thấy Phật". Phật hỏi: "Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như Lai chăng?"_ Ngài Tu Bồ Đề đáp: "Không thể cho thấy cái thân tướng của Phật là thấy Phật". 

Phật dạy tiếp: "Phàm cái gì có hìng tướng đều là hư vọng", (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Sắc thân của Phật do tứ đại giả hợp, có hình tướng nên cũng là hư vọng. Bởi thế nên thấy sắc thân của phật, chưa phải là thấy được Phật. 

Vậy thì thấy cái gì mới thấy được Phật? 

Phật dạy tiếp: "Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư vọng, tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp). 

Ngài thái Hư Pháp sư giảng: 

Đoạn này không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất cả các hình tướng, như thế giới chúng sanh v.v...cũng đều hư vọng, như hoa trong gương, như trăng duới nước, không có chơn thật. Nếu người rõ thấu được các tướng đều hư vọng như vậy, tức là đã thấy được "pháp thân của Như Lai", tức là rõ thấu được "tướng chân thật của các pháp", cũng tức là "Trí huệ vô thượng", và cũng tức là "Kim Cang Bát Nhã diệu tâm". 

(KIM CANG GIẢNG LỤC) 

Tóm lại, đoạn kinh nầy, Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá trừ vọng chấp: "Thấy sắc thân có 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được Phật", mà quên xoay trở lại, tự tìm cấu đức Phật thiệt trong tự tâm của minh. 

8. NGƯỜI TIN ĐƯỢC KINH NÀY, DO ĐÃ TRỔNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾP

Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! chúng sanh nghe đến kinh này, chẳng biết có tin được không?". 

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện tại mà cả vị lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau 500 năm, khi Như Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia (trì giới) hoặc tại gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ, thì biết người này đã trồng căn lành (đã tu), không phải mới bốn năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật đến nay 

LƯỢC GIẢI 

Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này, có tin được không?". Đây là lần thứ nhứt hỏi về việc tin thọ. 

Phật vì những hàng Đại thừa Bồ Tát, nói kinh Kim Cang Bát Nhã, dạy các vị Bồ Tát, dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ các vô minh vọng chấp ngã, pháp, để trở vềvới bản tâm thanh tịnh là tánh Bát Nhã chơn không, vô trụ vô tướng

Ông Tu Bồ Đề lo ngại cho chúng sanh cănthấp kém, sợ e không hiểu và không tin, nên ông hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này, có tin được không?". 

Đại ý, Phật dạy: không những hiện tại ở đời Chánh pháp, có chúng sanh hiểu và tin được kinh này, mà vị lai, sau khi Phật nhập diệt 500 năm, trong đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp, cũng có chúng sanh hiểu và tin được kinh này. Nhưng, những chúng sanh đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp tin được kinh này, là do họ đã nhiều kiếp có tu hành, trồng căn lành từ vô lượng đức Phật về trước (như Ngài Huệ Năng chỉ nghe một câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong kinh này mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu từ bốn năm đời đức Phật trở lại đây. 

9. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NẦY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG [^] 

Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Như Lai thấy rõ ràng và biết chắc chắn: Nếu có chúng sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin thọ, cho đến trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng sanh đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên

Tại sao vậy"_ Vì chúng sanh này không còn chấp tướng ngã tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng phải pháp và tướng không phai pháp". 

LƯỢC GIẢI 

Phật khuyên người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công đức vô lượng. Đây là lần khuyên thứ nhứt. 

Người có cái khiếu về âm nhạc, mới nhận được cái hay và ưa thích về âm nhạc. Người có cái khiếu về hội hoạ mới thấy được cái đẹp và ưa thích về hội hoạ. Người có cái khiếu về văn chương mới thấy cái hay và ưa thích về văn chương

Cũng thế, người có cái khiếu về Bát Nhã, hay nói theo danh từ Duy thức là "hạt giống Bát Nhã", mới hiểu và tin được kinh Bát Nhã

Người đã có hạt giống Bát Nhã, tất nhiên không còn chấp các tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, tướng phải pháp (Phật pháp) và tướng không phải pháp (tà pháp). Người này đuợc nghe thêm kinh Bát Nhã làm cho hạt giống Bát Nhã của mình được sanh trưởng, sẽ mau đặng quả Bồ Đề. Bởi thế nên phật dạy: " ta thấy rõ ràng và biết chắc chắn: chúng sanh nào nghe hiểu và tin được kinh này, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên". 

10. GIÁO PHÁP CỦA PHẬT CŨNG NHƯ CHIẾC THUYỀN ĐƯA NGƯỜI QUA BỂ KHỒ

Phật dạy: "Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh pháp" thì cũng đều bị dính mắc nơi bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanhthọ giả. Bởi thế nên khôngđược chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phhi chánh pháp". 

Cũng vì lẽ đó, nên Như Lai thường dạy: "Các thầy Tỳ kheo phải biết: giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông; các ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp

"Chánh pháp" còn không nên trụ chấp huống chi là "phi pháp". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "chánh pháp" và chấp "phi chánh pháp". 

Phật dạy hành giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là "chánh pháp" (hay Phật pháp) cũng không được chấp. Nếu còn trụ chấp, bất luận một tướng gì, thì cũng đếu bị mắc vào bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanhthọ giả, hay nói gọn hơn là mắc vào tướng ngã, pháp. Nếu còn chấp ngã, pháp thì phiền não vọng chấp đua nhau sanh khởi. Phiền não vọng chấp sanh khởi, thì hành giả không thể hàng phục được vọng tâm và an trụ chơn tâm

Bởi thế nên Phật dạy:" Giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò đưa người qua sông". Khi đến bờ rồi hành giả phải bỏ chiếc đò, mà lên bờ. Trái lại, nếu hành giả cứ khư khư chấp giữ chiếc đò, thì không bao giờ lên bờ được. Người tu hành cũng thế, phải bỏ cái "chấp", mới lên bờ giải thoát được. 

Trong kinh Viên giác chép:"Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như ngón tay để chỉ mặt trăng. Người xem, phải nương ngón tay mới thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng". 

Tóm lại, Phật dạy:"chánh pháp" (Phật pháp) còn không nên chấp, huống chi là "phi pháp". 

*** 

Ngài Xuyên Thiền sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát Nhã, nên làm bài kệ rằng: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Đắc thọ phàn chi mạt túc kỳ 

Huiyền nhai tán thủ trượng phu nhi 

Thuỷ hàn dạ lãnh ngư nan mích 

Lưu đắc không thuyền tải nguyệt qui. 

Dịch nghĩa: 

Niu nhánh chuyền cây chẳng phải tài 

Dốc đứng buông tay mới trượng phu 

Gió lạnh đêm khuya câu chẳng có 

Thuyền không chỉ chở bóng trăng thanh.

ĐẠI Ý 

Câu thứ nhứt, nói về tiệm tu, phải lần hồi, còn chấp trụ nơi danh tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây, thì không có gì hay cả. 

Câu thứ hai, nói về đốn tu, không trụ chấp các tướng; cũng như người đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết, mới là bực đại tài

Câu thứ ba, nói về tâm cảnh đều vắng lặng, cũng như canh khuya thanh vắng, bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như tờ, cá chim cũng đều lặng nghỉ, không hoạt động

Câu thứ tư, nói về khi các vọng chấp các tướng ngã, pháp đã hết, thì chỉ còn ánh Trí huệ Bát Nhã chơn không; cũng như chiếc thuyền không (không chấp) chỉ chở bóng trăng thanh (Trí huệ Bát Nhã). 

11. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT PHÁP" 

phật hỏi ông Tu Bồ Đề:"Như Lai có thành Phật không? Và Như Laithuyết pháp không?". 

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không thành PhậtNhư Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp

Như thế thì làm sao, có cái gì quyết định là "thành Phật", và có cái gì quyết định là "nói pháp". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai thật có thành Phật, và thật có nói pháp". 

Trong Duy thức Tam thập tụng có chép: 

Hiện tiền lập thiểu vật 

Vị thị Duy thức tánh

hữu sở đắc cố 

Phi thật trụ Duy thức 

Nghĩa là: nếu hành giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có chứng Duy thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn vọng chấp có "sở đắc" vậy. 

Nếu Như Laithành Phật, tất nhiên phải có chúng sanh chưa thành Phật, thế thì bốn tướng: ngã, nhơn v.v....đua nhau sanh khởi. Nếu còn ngã, nhơn v.v...thì không phải là Phật. 

Nếu Như Lai có nói pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp. Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã, bỉ, thứ. Nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế, nên Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc Phật nói:"Ta không nói một chữ". 

Đức Lão Tử nói:"Cái "đạo" mà có thể nói được, thì không phải thật là đạo. Cái "tên? mà có thể kêu gọi được, thì không phải thật là "tên" (Đạo khả đạo, phi thường đạo giả, danh khả danh, phi thường danh). 

Kinh chép:"Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây. Trời Đế Thích đến rưới hoa cúng dường. Ô ng Tu Bồ Đề hỏi:"Ai rãi hoa và rãi hoa để làm gì?". Trời Đế Thích thưa:"Ngài nói kinh Bát Nhã hay quá ! Con đến rãi hoa cúng dường". Ông Tu Bồ Đề nói:"Ta không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài không nói, con không nghe". 

Kết luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã". 

Ông Tu Bồ Đề đã hiểu:"Phật pháp" không thể nghĩ bàn, không thể chấp thủ, chẳng phải "có", chẳng phải "không", không phải "chánh pháp" và cũng không phải "phi chánh pháp"; nên bạch Phật rằng:"Như Lai không thành PhậtNhư Lai cũng không thuyết pháp". 

Tóm lại, phải rời các vọng chấp, không còn dụng tâm suy nghĩlời nói luận bàn, mới thật là "thành Phật" và "thuyết pháp". 

12. PHẬT PHÁP KHÔNG CÓ SAI KHÁC, DO TRÌNH ĐỘ CỦA CHÚNG SANH MÀ THẤY CÓ SAI KHÁC

Ông Tu Bồ Đề bạch Phật:"Phật pháp đã như thế, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau?". Phật dạy:"Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp (vô vi) có sai khác". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn nầy phá cái chấp "Phật pháp có sai khác". 

Đoạn trên đã nói:"Pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp và cũng không phải phi pháp" . phật pháp đã cao siêu như vậy, vượt ra ngoài nói năng và suy nghĩ, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau? 

Phật giải thích:"Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác" 

Trong kinh thường thí dụ:"Như ba con thú qua sông". Nghĩa là Phật pháp như con sông, không cạn không sâu. Hành giả như ba con thú lội qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu thừa); con Nai thì lội ngập cổ (dụ cho Trung thừa); con Voi thì lội ngập ống chân (dụ cho Đại thừa). 

*** 

Phật pháp cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn, nên Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Hư không cảnh giới khởi tư lương 

Đại đạo thanh u lý cánh trường 

Đản đắc ngũ hồ phong nguyệt tại 

Xuân lai y cựu bách hoa hương. 

Dịch nghĩa: 

Hư không rộng rãi lớn bao la 

Lý đạo lại càng quá thẩm xa 

Trăng, gió, nước hồ thường tự tại 

Chào xuân đua nở trăm nghìn hoa. 

ĐẠI Ý 

Hư không đã rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại càng cao siêu huyền diệu rộng lớn hơn hư không. Cảnh vật thiên nhiên của vũ trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ phẳng lặng, xuân về trăm hoa đua nở v.v...đều nói lên tinh thần tự tại giải thoát của Phật pháp

Kinh chép:"Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp". Nghĩa là "Tất cả các pháp thế gian cũng đều là Phật pháp". Nếu mê thì pháp thế gian, còn ngộ là Phật pháp

GIẢI DANH TỪ 

Chấp thủ: nắm giữ 

Chánh Pháp: Pháp chơn chánh 

Phi Pháp: Pháp không chơn chánh 

Vô vi: Pháp không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là chơn như hay Phật tánh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22306)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16027)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15039)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18968)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14454)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18638)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14435)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13595)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13558)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11826)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13266)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13671)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13945)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13256)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15028)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16167)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16462)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11912)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17605)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12882)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13720)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14862)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16399)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13138)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12102)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12777)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12923)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14183)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14138)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16488)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12384)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14392)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11040)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13201)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13171)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13010)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13514)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12742)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10239)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13974)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10242)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13711)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16274)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11975)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12986)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12686)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10803)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11003)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10950)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11903)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12772)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11071)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11333)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant