KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.8. BỘI ĐẠI HƯỚNG TIỂU GIỚI
(giới bỏ Đại
Thừa theo Tiểu Thừa)
Kinh văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “nhược
Phật tử tâm bội Đại Thừa thường trụ kinh luật” cho đến câu “...phạm khinh cấu
tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử có
quan niệm sai lầm, bỏ kinh luật Đại Thừa thường trụ, cho rằng không phải của
Phật nói, mà đi thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả cấm giới của Thanh Văn, Nhị
Thừa cùng ngoại đạo ác kiến. Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời
giảng:
Nghe có chỗ nói
pháp, phát tâm thành kính sốt sắng đi nghe, không một niệm kiêu mạn. Nhưng giáo
pháp gồm có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Đối với Bồ Tát, dù là pháp Đại Thừa hay Tiểu
Thừa đều cần phải tuân thủ bẩm thọ, không được thiếu sót. Nhất là giới pháp Đại
Thừa tích cực lợi ích chúng sanh, là đại pháp mà Bồ Tát cần phải tận lực tuân
hành,
Nếu trong
lúc nghe học giáo pháp, cần phải thú hướng Đại Thừa mà không thú hướng, lại
trái bỏ; cần phải trái bỏ pháp Tiểu Thừa mà không trái bỏ, lại còn thú hướng,
thì hoàn toàn không có tư cách của một vị Bồ Tát. Vì muốn phòng ngừa hành giả
có khuynh hướng như vậy, Đức Phật đặc biệt chế định điều giới này để cho hành
giả trong Đại Thừa đều nhất tâm, nhất ý chuyên học tập Đại Thừa, không nên có
khuynh hướng theo Tiểu Thừa.
Giới trọng cuối
cùng thứ mười là “giới hủy báng Tam Bảo” và “giới bỏ Đại Thừa hướng theo Tiểu
Thừa” này khác nhau như thế nào?
Giới hủy báng
Tam Bảo là đối với tất cả giới pháp Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều cực lực hủy
báng.
Bỏ giới Đại Thừa
hướng theo Tiểu Thừa này là chấp Tiểu Thừa, chê bai Đại Thừa, chỉ hủy báng giáo
pháp Đại Thừa, trong khi đối với giáo pháp Tiểu Thừa lại hết lòng tín thọ,
phụng hành, vọng chấp cho là Tiểu Thừa là chân Phật pháp.
Như thế, dù
không phá hoại toàn thể Phật pháp, nhưng trái với bổn hạnh của người Phật tử đã
phát đại Bồ Đề tâm. Không thể khế hợp với tinh thần sẵn có của Bồ Tát.
Tại sao vậy? Vì
Bồ Tát cần phải từ bỏ Nhị Thừa, thọ trì pháp chân thật Đại Thừa, mới đúng tư
cách của Bồ Tát. Nếu làm trái lại, tức là trái bỏ Đại Thừa mà xu hướng theo
Tiểu Thừa là trái ngược với đạo lý, cho nên Đức Phật vì chư Bồ Tát mà chế định
giới này.
Bồ Tát cần phải
có chí hướng cầu vô thượng Bồ Đề, phải dùng tinh thần tích cực, thực tiễn pháp
Đại Thừa, bi trí song vận, thực hành tự lợi, lợi tha. Nếu không như thế, mà
trái lại, đi học tập pháp Tiểu Thừa và tà kiến của ngoại đạo. Tội này còn nặng
hơn đại tội thất nghịch. Vì vậy, điều này quyết không thể tùy tiện.
Trong kinh Đại
Bát Nhã, phẩm Giới, có nói: “Nếu Bồ Tát trải qua hằng hà sa số kiếp thú hướng
thú vui ngũ dục thượng diệu, vẫn không gọi là phạm giới Bồ Tát. Nhưng nếu khởi
một tâm niệm Nhị Thừa tức là phạm giới”.
Chúng ta thấy
vấn đề này hết sức nghiêm trọng. Vì thế, trong kinh Niết Bàn nói: “Bồ Tát sợ
đạo pháp Nhị Thừa như người yêu tiếc thân mạng, sợ việc phải xả thân”. Do đó,
hành giả Bồ Tát chân chính phải từng giờ, từng phút hết sức đề phòng việc trái
bỏ Đại Thừa, xu hướng Tiểu Thừa này. Đừng để cho mình đi lầm vào con đường Nhị
Thừa. Vì chỉ hơi sơ ý một chút là có thể lầm bỏ Đại Thừa mà xu hướng Tiểu Thừa.
Như thế là trái nghịch với Bồ Tát đạo, mất hẳn tư cách Bồ Tát, không có hy vọng
được thành Phật.
Sở dĩ Đức Phật
xem việc này trọng yếu như vậy, chính vì Bồ Tát phát Bồ Đề tâm là một việc rất
hiếm có và khó được. Vì thế, Đức Phật cần phải từ bi, ái hộ Bồ Tát.
Trong Đại Trí Độ
Luận của tổ Long Thọ đối với việc này cũng nhấn mạnh rằng: “Ninh khởi ác lại dã
can tâm, bất sanh Thanh Văn, Bích Chi Phật ý” (thà khởi tâm ác lại, dã can,
đừng sanh ý Thanh Văn, Bích Chi Phật).
“Ác lại” là thứ
bịnh rất nguy hiểm như bệnh hủi. “Dã can” là con chồn rừng, dùng ám chỉ các ác
niệm trong tâm. Ý nói rằng thà trong thân sanh bịnh nguy hiểm như bịnh hủi,
hoặc nội tâm sanh khởi ác niệm như dã can, nhưng không được sanh khởi một niệm
Nhị Thừa.
Tại sao ở đây
dùng con chồn rừng dụ cho ác tâm, mà không dùng các loại thú khác như chó sói,
cọp, sư tử v.v...?
Căn cứ theo Luật
Ngũ Phần cùng với Pháp Uyển Châu Lâm thuyết minh như sau:
Xưa có một người
vào trong thâm sơn để chuyên đọc tụng sách Sát Lợi (Sát Đế Lợi là giòng vua
chúa, một trong bốn chủng tộc Ấn Độ ngày xưa. Sách Sát Lợi là những bộ sách
chuyên nói về việc giáo hóa cai trị nhân dân của giòng Sát Đế Lợi).
Khi ấy, có một
con chồn rừng đến bên người ấy, thành kính chuyên tâm nghe đọc tụng sách Sát
Lợi. Chồn nghe và thông hiểu, mới tự nghĩ rằng: “Mình đã thông hiểu sách này
thì đủ khả năng làm vua trong các thú”. Chồn ta đi dạo khắp núi rừng, trước
tiên gặp một con chồn đồng ốm yếu, bèn hách dịch ra oai, khiến chồn đồng phải
phục tùng. Dần dà, chồn ta hàng phục được các chồn khác, sau đó, cả đến cọp và
cuối cùng hàng phục được luôn sư tử. Thế là chồn rừng nghiễm nhiên là vua trong
các thú.
Được thế rồi,
chồn rừng lại nghĩ: “Ta là vị đế vương trong các thú, cần phải kết hôn với công
chúa của quốc vương mới được”. Thế là chồn ta ngồi trên lưng một con bạch tượng
và thống lãnh vô số thú rừng, kéo đến bao vây thành Ca Tỳ La Vệ, khiến quốc
vương vô cùng sợ hãi.
Có một quan đại
thần hữu trí tâu với vua rằng: “Xin thánh thượng hãy an tâm, thần có một kế làm
cho thú rừng ấy bị đánh bại. Ngày giao chiến với con thú rừng ấy, thánh thượng
nên đặt điều kiện với nó rằng: ‘Trong khi giao chiến, sư tử phải chiến đấu
trước, sau đó mới được gầm thét’. Chồn rừng kia chắc chắn sẽ nghĩ rằng chúng ta
sợ sư tử gầm thét, nên thế nào nó cũng hạ lệnh cho sư tử rống trước, sau đó mới
chiến đấu”.
Đến ngày
giao chiến, quả nhiên chồn rừng hạ lệnh cho sư tử gầm thét trước. Khi sư tử vừa
thét lên một tiếng, chồn rừng vừa nghe liền bị vỡ tim, từ trên lưng bạch tượng
nhào xuống đất mà chết. Cả đàn thú đồng rong chạy vào rừng.
Trong kinh Hoa
Nghiêm có bài kệ:
Ninh tại chư ác
thú,
Hằng đắc văn
Phật danh.
Bất dục sanh
thiện đạo,
Tạm thời bất văn
Phật.
Dịch:
Thà đọa trong ác
thú,
Thường được nghe
danh Phật.
Không muốn sanh
vào cảnh an vui,
Tạm thời không
được nghe Phật hiệu.
Nên biết dù đọa
vào tam ác đạo mà được nghe danh hiệu Phật còn mong có ngày ra khỏi và có thể
phát Bồ Đề tâm, viên thành Phật đạo. Nhưng nếu khởi một tâm niệm Nhị Thừa,
hướng về con đường giải thoát của Niết Bàn mà tiến tu thì chỉ có thể vào cảnh
giới tịch diệt Khôi Thân Diệt Trí (nghĩa là thánh nhân trong hàng Nhị Thừa, sau
khi đã đoạn hết phiền não trong tam giới, nhập Hỏa Quang Tam Muội, tiêu diệt
thân tâm trở về cảnh giới Niết Bàn không tịch vô vi. Đây là mục đích cuối cùng
của bậc tu hành trong Nhị Thừa).
Theo lý Chơn
Thường của Đại Thừa thì dù rằng hàng Nhị Thừa khi chứng nhập cảnh Niết Bàn tịch
diệt, nhưng cũng có những vị ở mãi trong Niết Bàn, không chịu bỏ Tiểu Thừa
hướng về Đại Thừa, nên không được thành Phật. Như vậy, không khế hợp với tôn
chỉ của Đại Thừa là “tất cả chúng sanh đều sẽ được thành Phật”.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu là một Phật tử thọ giới Bồ Tát, là một hành giả Đại Thừa chân
chánh, đáng lý tâm của người ấy phải mỗi mỗi niệm đều an trụ nơi Đại Thừa,
nhưng người ấy chẳng những không an trụ nơi Đại Thừa, mà trái lại, còn có quan
niệm từ bỏ kinh luật Đại Thừa thường trụ”.
Đối với ý nghĩa
thậm thâm của kinh luật Đại Thừa, không sanh khởi tín tâm thâm thiết, lại còn
hư vọng cho Đại Thừa là “chẳng phải Phật nói”.
Về quan niệm
thuyết Đại Thừa chẳng phải Phật nói này do các học giả Tiểu Thừa nêu ra. Chẳng
những ở Ấn Độ, lúc thuyết Đại Thừa mới được công khai lưu hành, mà chính trong
Phật giáo Nam tông hiện tại, cũng vẫn nhất quyết không thừa nhận Đại Thừa do
chính Đức Phật nói, còn hư vọng cho là do Thiên Ma nói, hay là thuộc về Bà La
Môn giáo. Do vì chư vị ấy chỉ thấy biết đạo lý pháp Tiểu Thừa, trong đó chỉ
giảng giải về vô thường, khổ, không, vô ngã, chứ không giảng đến sự hư vọng A
Lại Da (thức thứ tám trong tám thức); cũng không giảng đến Phật tánh thường
trụ. Do vậy, khi bỗng nhiên nghe về đạo lý tâm tánh thanh tịnh, Phật tánh
thường trụ thì tự nhiên cho Đại Thừa không phải do Phật nói. Do đó, không chịu
tín thọ.
Sự kiện này làm
cho sự phát triển của Phật giáo Đại Thừa vô cùng bất lợi. Vì vậy, trong các
kinh điển Đại Thừa thuyết minh rất nhiều lần:
- Tiểu Thừa chỉ
là thuyết phương tiện của Đức Phật.
- Đại Thừa mới
chính là thuyết chân thật của Phật giáo. Và duy chỉ có Đại Thừa mới là thuyết
cứu cánh của Phật pháp, giúp cho tất cả hành giả trong Phật pháp đối với Đại
Thừa phát sanh tín tâm vững chắc. Kỳ thật, không phải Phật giáo Đại Thừa đột
nhiên mới xuất hiện, mà thực sự đã có và phát triển từ lâu trong Phật giáo
nguyên thủy. Hiện nay, vì muốn nắm vững tinh thần giới pháp của Đức Phật, nên
mới có phong trào chấn hưng Đại Thừa Phật giáo như vậy.
Tất cả việc làm
của Đức Phật trên thế gian này đều vì mục đích cứu độ toàn thể chúng sanh nói
chung và nhân loại trong thế giới hiện tại nói riêng. Do đó, là một Phật tử,
chúng ta phải noi theo việc làm cao cả của đức Phật Đà, để được thành Phật như
ngài.
Muốn đạt đến mục
tiêu tối thượng như Phật, phải thực hành hạnh “thượng cầu hạ hóa” như Phật. Vì
thế, hành giả Bồ Tát phải tận lực thực hành điều này, để tạo thành nét đặc thù
thật đặc sắc cho Phật giáo Đại Thừa.
Các học giả bên
Thanh Văn thừa có quan niệm thật bảo thủ. Đối với sự tín ngưỡng mang tính chất
hình thức, họ tự cho là đầy đủ, rồi công khai tuyên bố: Đại Thừa không phải do
Phật nói. Họ lại tự xưng là Phật giáo nguyên thủy, và khăng khăng cho rằng chỉ
có chỗ tín ngưỡng của mình cho Phật nói. Đường lối lý luận đả kích và lối tín
ngưỡng mơ hồ này dẫn Phật giáo vào con đường tối tăm.
Vì thế, Ấn Thuận
luật sư nói: “Theo chỗ kiến giải của tôi phán định, Phật giáo hay không phải
Phật giáo, hoàn toàn không giống như kiến giải trong tâm mục của các ngài. Khi
Phật còn tại thế, mỗi câu, mỗi chữ chính từ trong kim khẩu của Ngài nói ra thì
có thể tin. Những gì Phật không nói, đó là sản phẩm huyễn tướng của người đời
sau, không thể tín ngưỡng”.
Đây thật là một
vấn đề vô cùng phức tạp. Nếu quan niệm theo tiêu chuẩn thủ xả: Phật nói mới
đúng, Phật không nói thì không đúng, cũng vẫn không thể thích dụng. Cần phải
cực lực cải chính từ trong căn bản. Nếu không như vậy, không một phương pháp
nào có thể bình luận, phán đoán vấn đề này cho chính xác được. Lời của Ấn Thuận
Luật Sư bên trên đúng là một lời khai thị rất có giá trị và đáng được xem
trọng.
Thế nào là Phật
pháp?
Theo tôi (Pháp
Sư) nếu cho là chư Phật trong mười phương không có thuyết pháp; điều này có thể
không cần luận bàn đến. Tuy nhiên, trên thế giới chúng ta đang sống hiện tại,
được biết Phật, biết pháp là từ nơi chính đức Phật Thích Ca, điều này không thể
nghi ngờ.
Ngài đã thổ lộ
qua ngôn ngữ, biểu hiện trong hành vi. Ngài còn có thánh cảnh tự giác của Ngài.
Đây là sự đại dụng của ba nghiệp ý địa, ngôn thuyết, và thân tâm, xuất hiện
trong nhận thức của con người. Đây cũng là căn nguyên của Phật pháp trong thế
gian.
Nhưng thật bất
hạnh thay! Vì sự xem trọng vấn đề “khẩu khẩu tương truyền” của Ấn Độ mà Phật
pháp đã sớm bị ngộ nhận là “những gì Phật nói” để rồi Phật pháp hoàn toàn không
đồng với “Phật nói”. Phật pháp bị ngộ nhận là “Phật nói” thì đó là một đại bất
hạnh cho Phật pháp!
Chẳng những hành
giả thuộc Phật giáo Nam Tông ngộ nhận như vậy, mà hành giả trong Phật giáo Bắc
Tông bên Trung Hoa từ trước đến nay không phải đều đã giảng như thế hay
sao?!
Nhưng sự thật,
các kinh điển Đại Thừa hiện còn, nếu khảo cứu một cách chính xác, thì những
điều Phật thân tuyên từ chính kim khẩu của Ngài quả thật rất hiếm, rất
hiếm!
Những kinh điển
Đại Thừa thường trụ bị cho là không phải Phật nói, bao gồm những kinh gì?
Đó là cả một hệ
thống kinh luật chân thường duy tâm như kinh:
- Đại Phương
Đẳng Như Lai Tạng.
- Kinh Bất Tăng
Bất Giảm.
- Kinh Vô Thượng
Y.
- Kinh Đại Pháp
Cổ.
- Kinh Đại Niết
Bàn.
- Kinh Thắng
Man,
- Kinh Lăng Già
v.v...
Kinh Phạm Võng
cũng thuộc về loại thường trụ Phật điển.
Tư tưởng kinh
luật của hệ thống Chân Thường Duy Tâm là khai thị, chỉ rõ chân tánh thường trụ,
bất sanh, bất diệt, gọi là Như Lai tạng, Như Lai giới, Như Lai tánh, Phật tánh
v.v... Nếu nói cùng với tâm tánh bản tịnh hợp nhất thì có thể gọi là Viên Giác,
Bổn Giác, Chân Tâm Thường Trụ...
Nó là thường
trụ, chẳng phải vô thường. Đầy đủ hằng hà sa công đức, không thiếu sót một mảy
may. Vì thế tư tưởng của kinh luật ấy phải đạt đến thường trụ Phật trí, Bồ Đề
bổn hữu, là Thật Tướng thường trụ, Phật tánh diệu giới, là thầy của chư Phật và
mẹ của chư Bồ Tát.
Hệ thống kinh
luật chân thường lấy thường trụ chân tâm làm căn bản. Bất cứ dùng danh từ chi
để thuyết minh, nó đều được nhận là “thánh phàm nhứt như, nhiễm tịnh bất
nhị”.
Nó là người tạo
nghiệp thọ khổ, thọ vui trong sanh tử. Dù ở trong ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập
bát giới, bị tam độc làm ô nhiễm, nhưng vẫn là thường trụ, chu biến, thanh
tịnh, chân thật, như tính chất vàng ở trong mỏ vàng, ngọc ma-ni ở trong vật ô
uế.
Nó là pháp chí
thiện, diệu minh ở trong Ngũ Ấm, thập nhị xứ, thập bát giới (tức ở trong thân của
hữu tình), là Chân Ngã, không tức Ngũ Uẩn, không ly Ngũ Uẩn. Nếu căn cứ vào lời
Như Lai dạy cùng với nó tương ứng không ngăn ngại thì hằng sa công đức thanh
tịnh đều sẵn đủ trong tự tánh. Nếu cùng với nó không tương ứng lại xa lìa, tức
gọi là khách trần phiền não.
Hai thuyết nói
trên trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Đức là cội gốc của tất cả các pháp, đầy
đủ tất cả pháp, ở trong pháp xuất thế, không xa lìa tất cả pháp chân thật, giữ
gìn tất cả các pháp, thu nhiếp tất cả các pháp”.
Kinh luật Đại
Thừa như thế, chẳng những Thích Ca Mâu Ni Phật nói như thế, thực hành như thế;
mà tất cả chư Phật ở mười phương, trong ba đời đều nói như thế, thực hành như
thế... Chỗ nói, chỗ thực hành của Phật trước sau đều như vậy, không mảy may
thay đổi. Cho nên gọi là “kinh luật thường trụ”.
Muốn tu Bồ Tát
hạnh phải y theo kinh luật ấy.
Muốn thành vô
thượng đạo cũng phải y theo kinh luật ấy.
Nếu xa lìa kinh
luật ấy thì không thể thực hành Bồ Tát đạo.
Nếu xa lìa kinh
luật ấy thì không thể chứng đắc vô thượng Bồ Đề.
Vì thế hành giả
trong Phật pháp, vị nào chưa gặp được kinh luật thường trụ này phải tìm cầu cho
được. Khi đã gặp được, phải chí thành khẩn thiết, y theo đó để thực
hành.
Nhưng vì tập
quán ác đã huân tập vào nội tâm, nên chẳng những không tín thọ, phụng hành, lại
còn nói: “Chẳng phải Phật nói”. Vì cho rằng không phải Phật pháp nên không chịu
noi theo lời khai thị của kinh luật thường trụ, đúng như pháp, như luật để
hướng về con đường rộng lớn Bồ Đề mà tiến bước. Vì thế làm trở ngại việc viên
thành Phật Quả. Đây là sự tổn thất vô cùng lớn lao!
Kinh văn nói:
“Chẳng phải Phật nói”, có nơi giải thích là chẳng phải không tin lời Phật nói,
nhưng vì hàng tân học Bồ Tát mới phát tâm, chưa được nghe Phật pháp nhiều, nên
không thể phân biệt Đại Thừa, Tiểu Thừa, Tà, Chánh.
Khi vừa nghe lý
“Phật tánh thường trụ”, hoặc “chúng sanh xưa nay là Phật” thì không thể tránh
khỏi sự hoài nghi, cho rằng nếu Phật pháp đã là thường trụ, và chúng sanh vốn
là Phật, thì cần chi phải tu Bồ Tát hạnh để cầu thành Phật? Bấy giờ, tự ỷ mình
là người thông minh, cho đấy không phải là Phật nói, đối với Đại Thừa có ý
tưởng từ bỏ.
Vì người ấy dù
muốn nói ra lời ấy, nhưng nếu vẫn chưa thực sự truyền bá ra bên ngoài, hoặc vì
còn trong thái độ do dự, chưa quyết định nên tiếp thọ hay không, cho nên chỉ
phạm tội khinh cấu.
Nếu lời hủy báng
đã phát ra, và làm cho người bị tổn hại, thì phạm căn bổn trọng tội.
Tại sao vậy? Vì
có một thiểu số hành giả trong Phật pháp, dù đã phát tâm đại Bồ Đề, thọ Bồ Tát
giới, nhưng chưa từng học qua kinh luật Đại Thừa thậm thâm, tối thậm thâm.
Những chỗ nghe, chỗ học, chỗ tu đều thuộc về ngôn giáo trong Tam Thừa Cộng Pháp
(pháp ba thừa đồng học), đều tuyên thuyết việc tu hành phải trải qua tam a tăng
kỳ kiếp, rồi ngồi dưới cội Bồ Đề thành Phật. Vì thế, những hành giả này cho
rằng phải thực hành y theo giáo pháp như thế mới đúng. Cho nên, khi bỗng nhiên
nghe nghĩa lý Đại Thừa thậm thâm, vi diệu, tự nhiên khó sanh tín tâm, không
khỏi cho rằng những giáo lý Đại Thừa ấy không phải là Phật nói.
Cho nên vì chưa hoàn
toàn thối thất tâm đại Bồ Đề, vẫn theo chỗ hiểu biết sẵn có mà tu Bồ Tát hạnh,
nên giới Bồ Tát đã bẩm thọ không bị mất. Đồng thời vẫn xem giáo lý Đại Thừa
thậm thâm là chánh pháp, nên cũng không phạm căn bổn trọng tội.
Trái bỏ kinh
luật Đại Thừa thường trụ để thọ trì kinh luật tà kiến cùng tất cả cấm giới của
Thanh Văn, Nhị Thừa và ngoại đạo ác kiến, đương nhiên Phật tử này phạm phải
khinh cấu tội.
Thanh Văn, Nhị
Thừa là người tu học Tiểu Thừa hạnh trong Phật pháp. Ngoại đạo, ác kiến là
người tu học hạnh của ngoại đạo ở ngoài Phật pháp.
Ác kiến thuộc về
phương tiện tư tưởng. Giới cấm thuộc về hành vi. Tư tưởng chỉ đạo hành vi. Hành
vi trực thuộc tư tưởng. Vì thế, tư tưởng đóng vai trò hết sức trọng yếu đối với
hoạt động của hành vi. Cho nên, ác kiến là điều phải hết sức đặc biệt lưu
tâm.
Theo lập trường
của Thanh Văn, thì kinh luật dùng làm sở y cho hàng Thanh Văn, Nhị Thừa hoàn
toàn là chánh pháp của Như Lai, cũng là từ đại dụng ba nghiệp của Đức Phật lưu
xuất.
Nếu y theo kinh
luật Thanh Văn thì sự kiến giải, tư tưởng của người tu học Nhị Thừa cũng thuộc
về chánh kiến, tại sao ở đây lại cho rằng ác kiến, tà kiến?
Vì kinh luật Nhị
Thừa cùng với lý Đại Thừa chống trái nhau. Nếu chỉ học tập theo kinh luật Nhị
Thừa thì sẽ đọa vào cảnh giới Nhị Thừa, không thể tiến lên Bồ Tát đạo, cho nên
nói là “ác kiến, tà kiến”. Còn những kinh luật dùng làm sở y cho ngoại đạo thế
gian, nếu không phải là các thứ tạp nhiễm tội ác thì cũng là những tư tưởng
vọng chấp sai lầm, chấp đoạn, chấp thường.
Là một vị Bồ Tát,
đối với những kinh luật ác kiến, tà kiến, đều không nên học tập. Vì điều đó sẽ
khiến cho mình trở thành một người ác kiến, tà kiến, chẳng những không thể tiến
tu Phật đạo, mà đối với đạo pháp giải thoát cũng đều không hy vọng. Do đó, hành
giả phải hết sức lưu tâm.
Ngoại đạo có một
học thuyết lý luận chủ trương giết bò, giết heo, dê cúng trời để cầu được sanh
về cõi Thiên.
Nếu Phật tử học
theo, tức là học kinh điển tà kiến, hạnh ngoại đạo. Lại còn có giới gà, chó
v.v... vì ngoại đạo không hiểu luật nhân quả ba đời, khi thấy gà, chó được sanh
lên cõi Thiên, lại thấy chó là loài ăn phẩn, vội lầm cho rằng ăn phẩn là nhân
được sanh lên cõi Thiên, bèn bắt chước chó, xúm nhau cam tâm ăn phẩn. Họ không
biết rằng ăn phẩn không phải là nhân được sanh lên cõi Thiên. Sở dĩ gà, chó
được sanh lên cõi Thiên, chẳng qua vì do nhân phước nghiệp đã gieo trồng nhân
sanh lên cõi Thiên sẵn có, nên được hưởng thọ quả báo an vui. Nay bạn bắt chước
chó ăn phẩn thì thử hỏi có được lợi ích gì? Cũng như bò là loài ăn cỏ; nếu lầm
cho ăn cỏ là nhân sanh lên cõi Thiên, rồi xúm nhau bắt chước bò ăn cỏ, uống
nước lã, mong cầu sanh thiên, mà không biết rằng đó không phải là nhân sanh lên
cõi Thiên. Nếu bạn bắt chước nó thì có lợi ích chi?
Ngoài ra, những
hình thức hoặc thờ lửa, hớp gió, hoặc hút không khí, nuốt nước miếng, hoặc đứng
co một chân, hoặc “ngũ nhiệt thiêu thân” (đem ngũ thể gieo vào lửa đốt), hoặc
hành xác thân bằng những cách như nằm trên chông gai, hoặc để thân thể lõa lồ
v.v... đều tự cho rằng tinh tấn hết khổ được vui. Thêm trong thời kỳ Mạt Pháp
này, còn có những người chỉ uống nước không ăn gì, tự gọi là “gột rửa ngũ
trược”. Hoặc nhịn đói bảy ngày vì cho rằng làm thế để thân tứ đại được không
tịch. Hoặc mùa Đông cực lạnh chỉ ở trần, đi chân không; mùa Hạ cực nóng lại để
tóc, mặc áo lạnh... làm như vậy và tự cho rằng không bị lạnh nóng xâm tổn.
Những thứ tà kiến tự giữ cấm giới như vậy nếu không phải là ngu si thì cũng là
dối gạt người.
Ngoài ra, còn có
những người sanh các vọng chấp, trước tác những sách vở v.v... đều gọi là kinh
luật tà kiến.
Như trên đã nói,
nếu một Phật tử đã thọ theo tà pháp, hoặc đọa vào Nhị Thừa, hay theo ngoại đạo,
nếu đối với tất cả giáo pháp của Phật tuyên thuyết đều bài bác, tức thuộc về tà
kiến của ngoại đạo. Nếu chỉ bài bác Đại Thừa mà không chê bai pháp Tiểu Thừa
thì thuộc về ác kiến của Nhị Thừa. Nếu theo giới bò, chó của ngoại đạo, hay
Nhiếp Luật Nghi Giới của Nhị Thừa đều là trái với giới tánh Đại Thừa.
Ở đây xem giới
pháp của Thanh Văn là tà giới, không phải khinh thường giới pháp Thanh Văn,
cũng không phải nói giới pháp Thanh Văn không cần giữ gìn, mà chính vì sợ cho
hành giả Bồ Tát thừa chỉ đi vào con đường tịch diệt của Thanh Văn, trái bỏ
chánh tâm nhân địa diệu giới của mình đã bẩm thọ, mà bị mất cực quả thành Phật.
Vì thế, bị Đức Phật quở trách là người ác kiến.
Thật ra, đối với
Nhiếp Luật Nghi Giới của Thanh Văn, tất cả Phật tử, đặc biệt là hành giả Bồ Tát
phải giữ gìn nghiêm cẩn. Vì chỉ có giữ gìn hết sức thanh tịnh Nhiếp Luật Nghi
Giới để tự trang nghiêm thân tâm cho chính mình thì việc giáo hóa nhân quần mới
được sự tín ngưỡng của quảng đại quần chúng trong xã hội.
Ngược lại, nếu
không giữ gìn tinh nghiêm Nhiếp Luật Nghi Giới thì chính bản thân Bồ Tát có rất
nhiều khuyết điểm, như vậy làm sao hóa độ chúng sanh tu học theo Phật
pháp?
Nên kinh Địa
Tạng Thập Luân nói: “Bồ Tát cần phải tu học trong Tam Thừa, không nên có tâm
kiêu mạn, vọng xưng mình là Đại Thừa mà hủy báng pháp Thanh Văn, Duyên Giác.
Trước kia, ta vì những người có căn khí Đại Thừa, muốn cho sự tu hành được kiên
cố, nên mới nói như vầy: Chỉ cần tu theo Đại Thừa thì có thể được rốt ráo. Vì
thế, lời nói hôm nay cùng với ngày xưa kia không trái nhau”.
Vì thế, nếu một
vị Phật tử phát tâm xuất gia, học pháp Tiểu Thừa, thì phải giữ gìn giới Thanh
Văn cho thanh tịnh. Ngay đến những người dù học pháp Đại Thừa, cũng phải giữ
gìn y như vậy. Vì nếu khinh thường giới Thanh Văn và không đúng theo pháp giữ
gìn, thì nên làm một hành giả Bồ Tát tại gia, không được phép cạo râu tóc, mặc
áo ca-sa, hiện tướng xuất gia. Nếu không sẽ trở thành một tỳ kheo tặc trụ (kẻ
giặc trong Phật pháp), tội ấy rất lớn.
Nên biết Thanh
Văn là Trụ Trì Tăng Bảo của thế gian, không thể thiếu được, đồng với việc tán
dương Đức Phật và việc trụ trì chánh pháp của Như Lai. Vì thế, giới hạnh thanh
tịnh của chúng Tăng xuất gia rất quan hệ đến sự tồn vong của tiền đồ Phật pháp,
nên không được mảy may xem thường.
Nếu không nghiêm
trì giới Thanh Văn, chính là làm mất hẳn tư cách của Tăng Bảo. Tăng Bảo đã mất
rồi thì Phật Bảo, Pháp Bảo cũng không thể tồn tại ở thế gian. Tam Bảo đã chìm
đắm trong thế gian thì hàng nhân thiên sẽ mất hẳn chỗ nương tựa. Cõi thế gian
sẽ trở thành cảnh như kinh Pháp Hoa nói: “Tam ác đạo dẫy đầy, chúng nhân thiên
giảm thiểu”. Vấn đề này thật không phải nhỏ.
Nên trong kinh
Niết Bàn dạy: “Ngũ Thiên, Thất Tụ đều là luật nghi của Bồ Tát xuất gia”. Tám
muôn oai nghi trong kinh Phạm Võng này, thất chúng Phật tử đều cần, chúng sanh
trong ngũ đạo đều thu nhiếp, không thể cho phép người phá giới hạnh xưng là
Phật thừa.
Nhưng vì ngoài
việc giữ gìn Nhiếp Luật Nghi Giới, đối với Nhiếp Thiện Pháp Giới và Nhiếp Chúng
Sanh Giới cũng không được khinh thường, bỏ qua. Vì đây chính là giới pháp mà Bồ
Tát có bổn phận phải giữ gìn. Nếu chỉ chuyên giữ gìn Nhiếp Luật Nghi Giới mà
khinh thường Nhiếp Thiện Pháp Giới và Nhiếp Chúng Sanh Giới, thì đối với Bồ Tát
giới sẽ có chỗ sai phạm. Kinh này dạy đối với Tam Tụ Tịnh Giới đều xem trọng,
không được thiên về một phương diện nào.
Thất chúng Phật
tử đều có thể thọ giới Bồ Tát, tức đều là Bồ Tát. Cho nên đối với giới điều
ngăn cấm sự trái bỏ Đại Thừa này, tất cả thất chúng đều phải tuân giữ. Tuy
nhiên, việc giữ gìn giới này có sự khác biệt hoàn toàn giữa các hành giả thuộc
Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Với hành giả
Thanh Văn, những kinh luật Tiểu Thừa bắt buộc phải học tập. Vì phải học tập
kinh điển ấy nên lẽ tất nhiên, không thể nói là vi phạm giới này. Nhưng nếu
chấp theo ngoại đạo thì phạm tội trách tâm, nghĩa là tự trách mình tại sao lầm
lẫn chấp trước theo pháp ngoại đạo như thế.
Nếu phát khởi
tâm muốn đến chỗ ngoại đạo nghe pháp, thì cứ mỗi bước kết thành một tội và phải
sám hối. Nghe ngoại đạo thuyết pháp, nhưng chưa thâm nhập lời nào vào tâm đã
hối hận bỏ đi, không nghe tiếp thì được phép sám hối trừ tội, được tiếp tục ở
chung với chúng tăng.
Nhưng nếu đã
nghe phép ngoại đạo lại để thâm nhập vào tâm, và phụng hành theo, dù chỉ như
nhổ một sợi tóc v.v... thì giới Tỳ Kheo bị mất, thành tội rất nặng. Trong hiện
đời, không được liệt vào tăng số. Có thể nói là việc này hết sức nghiêm
trọng.
Giới này chỉ
ngăn cấm chứ không khai mở. Nếu một Phật tử đã phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo,
cần phải trước sau như một, lấy Đại Thừa làm chỗ sùng thượng của mình, không
được phép trái bỏ, không học tập, dù chỉ trong một phút giây ngắn ngủi.
Nếu trái bỏ tức
thành một vị Bồ Tát bại hoại giới thể. Theo ý nghĩa này mà trong Du Già Bồ Tát
giới bổn thuyết minh: “Nếu chư Bồ Tát an trụ Tịnh Giới Luật Nghi của Bồ Tát.
Đối với Bồ Tát tạng khi chưa nghiên cứu tinh tường mà lại trái bỏ, chỉ chuyên
học tập Thanh Văn tạng. Thế là có chỗ trái nghịch, nên phạm tội, nhưng không
thuộc về tội nhiễm ô vi phạm”.
Vì Phật pháp
Tiểu Thừa như những bậc thang dùng tiến đến Đại Thừa, nên đối với Bồ Tát, phải
học rộng tất cả các pháp môn. Do đó, cần phải nghe, học và tu theo giáo pháp
Thanh Văn. Vì vậy, Bồ Tát học tập Thanh Văn Tạng là điều hoàn toàn không sai
lầm. Sai lầm ở chỗ nếu người ấy chỉ chuyên học tập theo Thanh Văn tạng và đối
với Bồ Tát tạng của mình lẽ ra cần phải học tập, lại bỏ qua không chịu học, nên
gây thành tội bỏ Đại Thừa học tập Tiểu Thừa. Nhưng vì chưa có tâm niệm quên hẳn
Phật pháp nên không liệt vào tội nhiễm ô vi phạm.
Như trường hợp
của ngài Thế Thân Bồ Tát, lúc mới xuất gia chỉ chuyên học tập theo Phật pháp
Tiểu Thừa, và lấy việc hoằng dương Tiểu Thừa làm trách nhiệm của mình. Đối với
Đại Thừa, chẳng những không có tín tâm học tập, còn trở lại cực lực bài xích.
Về sau, được sự cảm hóa của anh ngài là Vô Trước Bồ Tát; bấy giờ, Thế Thân Bồ
Tát mới biết lỗi của mình, Ngài định cắt bỏ lưỡi để sám hối. Vô Trước Bồ Tát
biết rõ, bèn dạy rằng: “Trước kia em dùng lưỡi ấy hủy báng Đại Thừa tội ấy rất
nặng. Giờ đây em hãy dùng lưỡi ấy để tán dương Phật pháp Đại Thừa thì có thể
đem công chuộc tội, cần chi phải cắt lưỡi bỏ”.
Ngài nhận thấy
lời dạy của anh mình rất đúng. Từ đó, phát nguyện bỏ Tiểu Thừa hướng về Đại
Thừa, chuyên tâm hoằng truyền pháp Đại Thừa, lại còn trước tác một ngàn bộ luận
để tán dương pháp Đại Thừa. Đây là một tấm gương rất tốt.
Học tập theo tà
kiến ngoại đạo dĩ nhiên là không đúng, chẳng những kinh này, mà chính trong
kinh Du Già Bồ Tát Giới Bổn cũng có nói như sau: “Nếu chư Bồ Tát an trụ Tịnh
Giới Luật Nghi của Bồ Tát, nếu đối với giáo pháp trong Phật giáo chưa nghiên
cứu tinh thông mà lại tinh cần học tập lý luận của ngoại đạo cùng những sách vở
của thế gian. Vị Bồ Tát này vì hành động có chỗ trái ngược với giáo pháp nên
phạm tội nhiễm ô trái phạm”.
Nếu Bồ Tát muốn
cải chánh tư tưởng, sai lầm của ngoại đạo mà dựng cao pháp tràng chánh pháp của
Như Lai nên phải tinh cần học tập kinh luật của ngoại đạo, thì đối với giới Bồ
Tát không trái phạm. Trường hợp này trong kinh Bồ Tát Thiện Giới nói: “Vì duyên
cớ phá tà kiến, vì muốn biết rõ ngoại điển là hư vọng, Phật pháp là chân thật,
vì muốn biết việc đời để không bị thế nhân khinh chê, nên Bồ Tát đọc tụng văn
từ và các thứ sách vở chú thích của thế điển hay ngoại đạo thì không phạm
giới”.
Đây gọi là chỗ
“biết mình rồi phải biết người”, là phương tiện tối thắng hoằng dương Phật
pháp. Nếu quả thật như vậy thì có thể mỗi ngày dùng hai phần thời gian chuyên
tu học Phật pháp, một phần thời gian đọc sách vở ngoại đạo hay thế tục cũng
không quan hệ gì. Đây là vì muốn lợi ích cho ngoại đạo và thế nhân, chớ không
phải có tâm ưa thích theo pháp ngoại đạo thế gian.
Nhưng khi học
tập sách vở ngoại đạo thế gian, nếu bị mê hoặc mà sanh tâm ưa thích và cho rằng
những lý luận, sách vở của thế gian hay ngoại đạo cũng đúng, tức là vi phạm
giới điều này.