Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Nhân Duyên

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6964)
Phần Nhân Duyên

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ

Tác giả : MÃ MINH - Dịch & giải: Chân Hiền Tâm
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2004

Phần NHÂN DUYÊN

Đầu tiên nói về phần Nhân Duyên

Hỏi : Do nhân duyên gì mà tạo luận này ?

NHÂN DUYÊN là nói về nguyên nhân làm ra bộ luận. Nguyên nhân nào mà bộ luận được tạo ra?

Đáp : Nhân duyên ấy có 8. Thế nào là 8?

1. Tổng tướng của nhân duyên. Đó là để chúng sanh lìa tất cả khổ, được cái lạc rốt ráo, chẳng phải vì cầu danh lợi và sự cung kínhthế gian.

TỔNG TƯỚNG là nói đến tướng chung, tướng tổng quát. Tuy nguyên nhân có 8, nhưng đây là phần nguyên nhân chung hết. Gọi là chung vì nguyên nhân này lồng trong 7 nguyên nhân kia. TƯỚNG là từ nhà Phật dùng để phân biệt với THỂ, tạm hiểu nó như từ ‘hình thức’ hiện nay. Nguyên nhân khiến bộ luận xuất hiện là do lòng thương xót đối với chúng sanh. Không phải vì danh lợi hay sự cung kính của bản thân mà chỉ vì muốn chúng sanh lìa tất cả khổ, được cái vui rốt ráoLuận chủ tạo luận này.

Luận này không chỉ giúp người đạt được cái vui, mà còn là cái vui rốt ráo. VUI RỐT RÁO là vui mà không còn một chút khổ nào hết. Nó không phải là cái vui duyên khởi với cái khổ ở thế gian, nên nó là cái vui rốt ráo. Vui đã RỐT RÁO thì khổ phải lìa TẤT CẢ. 

TẤT CẢ KHỔ là chỉ cho cái khổ của phàm phu, ngoại đạo, Nhị thừaBồ tát. Nhị thừa tuy nói chứng niết bàn, nhưng niết bàn ấy vẫn còn bị ‘biến dịch sanh tử vi tế khổ’ chi phối. VI TẾ nghĩa là nhỏ nhiệm. Phải qua luôn cái biến dịch sanh tử ấy mới gọi là được cái vui rốt ráo.

2. Vì muốn giải thích nghĩa căn bản của Như Lai để chúng sanh nhận hiểu được chân chánh không lầm. 

NGHĨA CĂN BẢN CỦA NHƯ LAI là tất cả những gì được nói trong phần Lập Nghĩa và Giải Thích.

Đây bắt đầu đi vào chi tiết. Nguyên nhân thứ hai khiến bộ luận ra đời là để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai. Giải thích để làm gì? Để chúng sanh nắm được vấn đề rõ ràng. Có nắm được rõ ràng, mới đủ niềm tintu hành. Đã gọi là CỦA NHƯ LAI thì chỗ ấy không phải là chỗ mà phàm phu, Nhị thừaBồ tát có thể nhận hiểu hoàn toàn, nên cần phải giải thích

3. Vì muốn khiến chúng sanh căn lành thành thục có thể kham nhận Đại thừa, chẳng thối mất niềm tin.

Đây là nguyên nhân thứ ba khiến bộ luận xuất hiện. Ngài Hám Sơn cho những CHÚNG SANH CĂN LÀNH THÀNH THỤC này là những vị ở cấp cuối bậc Thập Tín bước vào Thập Trụ. Căn cứ vào phần nhiễm tâm dưới thì mãn tâm Thập Tín đây là chỉ cho những vị đã phá bỏ được sự chấp thủ đối với ngoại cảnh. Nghĩa là, dù đối cảnh tâm có khởi phân biệt yêu ghét chăng nữa, thì cũng không vì cái yêu ghét ấy mà tìm cách ôm giữ hay tống đi để tạo thành ác nghiệp, mà chịu quả báo khổ đau trong 3 đường dữ.

Thập Tín rồi mà không chịu tu tập thì niềm tin ấy cũng không tới đâu. Vì thế, những vị này tuy được liệt vào hạng ‘thiện căn thành thục’, nhưng vẫn chưa được gọi là hạng bất thối. BẤT THỐI là không rơi vào phàm phu hay Nhị thừa nữa. Dù ra đời trong hoàn cảnh nào thì tâm tu hành theo Đại thừa vẫn hiển lộ. Vì thế, việc tạo luận là cần thiết để giúp người tu tậpnuôi dưỡng tín tâm

KHAM NHẬN, diễn tả cho việc nhận lãnh có sự chịu đựngkiên trì trong đó. Vì sao phải kham nhận? Vì tu Đại thừa thì phải lấy lợi ích của muôn loài làm trọng. Muốn vậy thì việc tu hành không đơn giản, không thể tu qua loa, vui vui như tu phước mà phải tập trung phá trừ bản ngã tập nghiệp. Bản ngã phải không thì việc lợi ích cho muôn loài mới thật sự có. Bản ngã phải trừ thì mới thể nhập lại được cái không của Đại thừa. Cái lạc của niết bàn phải bỏ thì mới có thể thấy được Phật tánh của mình. Không có sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ thì không làm được nên nói KHAM NHẬN. Gặp khó mà không nản thì niềm tin mới không thối, nên nói “Có thể kham nhận … chẳng thối mất niềm tin”.

4. Vì muốn khiến chúng sanh căn lành ít ỏi tu tập tín tâm

CĂN LÀNH ÍT ỎI là chỉ cho những vị cũng có thiện căn, nhưng loại thiện căn này không được như loại thiện căn trên. Tin nhân quả, làm lành tránh ác, cúng dường, bố thí ... nhưng lúc được lúc mất. Nghe nói tâm mình là Phật thì cũng không phản đối, nhưng tin thì cũng chưa tin v.v... đều thuộc địa vị này. Luận lập ra là để giải thích và nêu bày phương tiện khiến các vị tu tậpcủng cố thêm niềm tin đối với Đại thừa.

6. Vì chỉ bày phương tiện tiêu trừ các chướng của ác nghiệp, khéo giữ tâm mình, xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà. 

Mục đích thứ năm khiến Luận chủ tạo luận là vì chỉ bày phương tiện tu hành. Phương tiện ấy là tiêu trừ cái chướng của ác nghiệp. ÁC NGHIỆP là chỉ cho những hành động mang lại đau khổ cho muôn loài. Nhân là khổ thì quả là khổ. CHƯỚNG là chướng ngại, không thuận hoặc ngăn che. Ác nghiệp khiến tâm mình xa dần thiện tâm, ngăn không cho mình thể nhập Phật tánh, nên nói là CHƯỚNG.

SI MẠN là chỉ chung cho tất cả những loại tà chấp.

Gọi là LƯỚI TÀ, vì cái tà này nối tiếp cái tà kia, phủ xuống đời người như một tấm lưới. Ác quả này là nhân cho một ác quả kế tiếp. Ác quả kế tiếp là nhân cho một ác quả kế tiếp nữa. Cứ vậy mà nối dài chằng chịt xoay quanh. Một khi vướng vào si mạn và các ác nghiệp thì như cá mắc trong lưới. Nếu không chỉ bày phương tiện thì khó mà thoát được tấm lưới ấy nên phải tạo luận để chỉ bày. Phương tiện này nhắm vào những vị chưa có thiện căn hay thiện căn ít ỏi.

Giữ được tâm không khởi niệm ác thì ác nghiệp không sanh, nên nói KHÉO GIỮ TÂM MÌNH. 

6. Vì chỉ bày tu tập Chỉ Quán, đối trị tâm sai lầm của phàm phuNhị thừa.

Phương tiện này nhắm vào những vị thiện căn khá thuần thục nên nói “ĐỐI TRỊ tâm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa”. Nói thiện căn thành thục mà có PHÀM PHU, là chỉ chung cho những vị phát tâm tu Phật, không kể là tăng hay tục. Nhị thừa là chỉ cho những vị lấy quả vị A La HánBích Chi Phật làm cứu cánh. Chỗ rốt ráo thật sự không phải là những quả vị ấy nên nói SAI LẦM. Không CHỈ không QUÁN thì không thể lắng tâm, dứt vọng tưởngngộ nhập lại Phật tánh của mình, nên phải nêu bày môn CHỈ - QUÁN để tu tập

7. Vì chỉ bày phương tiện “chuyên niệm” để sanh về trước Phật, nhất định chẳng còn thối mất tín tâm.

Đây cũng nhắm vào những vị đã có thiện căn. Song hạng thiện căn này không hợp với phương tiện CHỈ - QUÁN trên, nên phải chỉ bày phương tiện ‘chuyên niệm’. CHUYÊN NIỆM là chỉ cho việc niệm Phật. Không nói là niệm Phật mà gọi là CHUYÊN NIỆM vì cái niệm Phật này cần chuyên cần không gián đoạn. CHUYÊN thì mới đánh bật được dòng vọng tưởng. NIỆM mà toàn là Phật niệm thì cảnh giới mới là cảnh giới Phật. 

Việc CHUYÊN NIỆM này cũng có công năng giúp gạt bỏ dòng vọng tưởng như phương tiện CHỈ - QUÁN. Song nó dễ dùng và mang tính đại trà hơn, vì nó thuận với cái HAY KHỞI của chúng sanh. Thay vì nói chuyện hay suy nghĩ lan man thì ta niệm Phật. Vậy thì vẫn được khởi, mà khởi cái NIỆM Phật.[5] Tạo luận là để mọi căn cơ có được phương tiện thoát khổ, nên không thể chỉ lập bày phương tiện CHỈ - QUÁN mà cần phải có thêm phần CHUYÊN NIỆM này. 

8. Vì chỉ bày sự lợi ích và khuyên tu hành.

Đây là nguyên nhân cuối khiến Luận chủ tạo luận. KHUYÊN TU là đọc, học, hiểu rồi thì … nhớ tu! Tu mới là chính. Vì đọc học nhiều bao nhiêu mà không tu thì không thể hết khổ. Trong khi khổ là nhân duyên tổng quát khiến Luận chủ tạo luận. Nên phải khuyên tu. KHUYÊN nghĩa là không bắt buộc, không ép uổnggiải thích rõ ràng mọi việc, đồng thời nêu bày sự lợi ích của việc tu hành để người người tự phát tâm. Vì thế, CHỈ BÀY SỰ LỢI ÍCH của việc tu hành là điều tất nhiên phải có trong bộ luận. 

Vì các nhân duyên như vậy mà tạo luận. 

Đây là tổng kết nhân duyên tạo luận. Bởi bản ý của Bồ tát là độ chúng sanh, nên vì chúng sanh phát khởi nhân duyên tạo luận. Trong 8 nhân duyên này, duyên đầu là nói chung, 7 biệt duyên còn lại là bao quát toàn luận. Sẽ nói lại đầy đủ ở văn dưới. [6]

Dưới, hỏi để khai triển rộng nhân duyên tạo luận. 

Hỏi : Tudala đã có đủ pháp ấy, sao còn lập lại?

Trong Khế kinh đã có đủ, vì sao còn phải tạo luận?

Đáp : Trong Tudala tuy có pháp ấy, nhưng do chúng sanh căn hạnh chẳng đồng nên nhân duyên nhận hiểu có khác. Nghĩa là, khi Như Lai còn tại thế, chúng sanh thì căn tánh lanh lợi, người thuyết thì nghiệp của thân tâm thù thắng, viên âm một khi nói ra, mọi loài khác nhau đều cùng nhận hiểu nên chẳng cần tạo luận.

TUDALA là khế kinh, là chỉ chung cho kinh Phật. KHẾ có 2 nghĩa là khế lý và khế cơ. KINH có 2 nghĩa là xâu lõi pháp tướng không rời rạc và nắm giữ điều giáo hóa

PHÁP ẤY là “Nghĩa căn bản của Như Lai”.

CĂN HẠNH CHẲNG ĐỒNG là chỉ cho mức độ thanh tịnh tâm ở mỗi người có sai khác. VIÊN ÂM là chỉ cho âm thanh của Phật. Gọi là viên âm vì cái dụng dung thông và tròn khắp của nó. Nghiệp càng thanh tịnh thì dụng càng rộng. Nghiệp càng thanh tịnh thì việc nhận hiểu đại pháp càng sâu. Người gặp được Phật tức căn lành đã khá sâu, nên thời Phật còn tại thế, việc giáo hóa rộng rãi đến muôn loài mà việc nhận hiểu đại pháp cũng dễ dàng thông suốt. Việc tạo luận lúc ấy không còn cần thiết.

Nhưng sau khi Như Lai nhập diệt, hoặc có chúng sanh lấy việc tự lực nghe nhiều mà nhận hiểu. Hoặc có chúng sanh cũng lấy việc tự lực, nghe ít mà hiểu nhiều.

Đây là tình trạng chúng sanh sau khi Phật đã nhập diệt. TỰ LỰC là, không cần nương nhờ sự giải thích nào khác mà tự mình đọc học kinh điển, rồi nhận lấy nghĩa Như Lai đã nói. TỰ LỰC được vì tâm ít loạn động, phiền não lại mòn mỏng. 2 hạng này căn tánh còn sáng sủa nên có thể tự nghe hay đọc khế kinh mà nhận lấy tâm Phật của mình. 

Hoặc có chúng sanh không tự tâm lực, phải nhờ vào những bộ luận rộng mới nhận hiểu được. Cũng có chúng sanh lại thấy việc “luận rộng văn nhiều” là phiền phức, tâm muốn thâu tóm “văn ít mà thu nhiếp nhiều nghĩa” để có thể nhận hiểu.

Những vị này thì tâm ít sáng sủa hơn, không tự mình hiểu được lời Phật dạy trong kinh. Nghe kinh như vịt nghe sấm, nên chư Tổ phải tạo luận. Tạo luận là cốt cắt nghĩa, biện rõ từng chi tiết bằng ngôn ngữ của mỗi thời, sao cho phù hợp với từng căn cơ để người dễ nhận hiểu. Đây chia làm 2 hạng. Một là hạng phải nhờ vào các bộ luận rộng mới hiểu được. Hạng này tuy đọc kinh không hiểu, nhưng đọc những bộ luận dài và rộng vẫn hiểu được. Hạng thứ hai là hạng sợ chữ nhiều nhưng lại muốn nắm được nhiều thứ. Tâm muốn nhiều nhưng nhẫn lực không đủ, nên không kham nỗi những bộ luận dài mà nghĩa lý lại quá mênh môngchi tiết. Vì thế phải tạo loại luận chữ ít mà nghĩa thật nhiều để đáp ứng.

Luận này là như vậy. Vì muốn tổng nhiếp pháp thâm sâu rộng lớn vô biên nghĩa của Như Lai mà nói luận này.

“LUẬN NÀY là như vậy” là loại luận chữ ít mà nghĩa thật nhiều, được làm ra để đáp ứng cho hạng căn cơ sau cùng. Dịch và giải ra đây thấy còn nhiều chứ phần Hán văn chỉ hơn 11.000 chữ. Song tất cả nghĩa lýNhư Lai đã nói đều gom đủ trong ấy. Quả tình là chữ rất ít mà nghĩa rất rộng. CHỮ RẤT ÍT vì những chi tiết đã được giản lược và tóm gọn. NGHĨA RẤT RỘNG vì tuy giản lược nhưng nghĩa lý sâu xa vẫn đầy đủ. Ngài Hám Sơn nói “Trong ấy đã tổng nhiếp hết cả pháp thâm sâu, rộng lớn, vô biên diệu nghĩa của Như Lai. Nghĩa là, gom hết nghĩa sâu xa của trăm bộ Đại thừa một cách bao quát vô biên, mở rộng pháp giới nhất tâm như nhìn thấy trái cây trong lòng bàn tay. Thật là huyền môn nhập lý, diệu chỉ tu hành! Người học há chẳng hết lòng ư?”.

“Há chẳng hết lòng ư?” vì luận này không chê vào đâu được. LÝ thì bao quát rõ ràng. SỰ thì chỉ bày đầy đủ. Ứng hợp cho mọi căn cơ từ thấp đến cao, nên cần phải hết lòng đọc học tu tập để khỏi phụ lòng bậc Cổ đức.

Đã nói Nhân Duyên, kế nói phần Lập Nghĩa. 

Đây là kết phần trước, giới thiệu phần sau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26645)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28243)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29378)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33279)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21760)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30641)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37149)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32296)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27120)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20613)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22242)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23981)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22864)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23202)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30067)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23124)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22316)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21782)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28209)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19249)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20139)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30897)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41504)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32715)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19116)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34005)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24965)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23679)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25308)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27763)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24994)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23821)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58681)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23202)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20887)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28152)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28904)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24587)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21421)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23840)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28600)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29400)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17637)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31011)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25327)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18953)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20130)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23943)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20153)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24814)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19397)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22566)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61812)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31130)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22110)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant