Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11 Phẩm Hạnh của Bồ tát

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8281)
11 Phẩm Hạnh của Bồ tát


ÐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

11. PHẨM HẠNH BỒ TÁT

Khi đó, Ðức Phật đang nói pháp ở vườn cây Am La, vườn ấy bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả đại chúng trong pháp hội đều trở thành sắc vàng. Lời kinh muốn diễn tả tâm thức của đại chúng đã rộng mở sẵn sàng đón nhận tư tưởng Ðại Thừa. Người Ấn Ðộ có mầu da nâu hoặc đen, nay chuyển sang da mầu vàng là mầu đẹp đẽ tôn quý, vườn cây trở nên rộng rãi trang nghiêm, ám chỉ sự hoán chuyển nội tâm biến hiện ra bên ngoài, trong tốt thì ngoài cũng đẹp, tinh thần sáng suốt thì tướng trạng vật chất bề ngoài cũng oai nghiêm, Chánh BáoY Báo đều tốt đẹp

Ông A Nan thấy điềm lành này liền hỏi và được Phật giải thích đây là ông Duy Ma Cật, Ngài Văn Thù cùng đại chúng phát tâm muốn đến đảnh lễ cúng dường Ðức Thế Tôn. Câu kinh này muốn nói là sau khi được ông Duy Ma Cật khai ngộ giáo lý Ðại Thừa, tất cả đại chúng đều phát tâm hướng về chỗ giác ngộ hoàn toàn, giải thoát hoàn toàn, chứ không ham phước báo cõi Trời, cõi người, không mong những địa vị tu chứng cục bộ từng phần của hàng Nhị Thừa nữa. Họ đã được nghe Chánh Pháp rồi, nay mong được đảnh lễ cúng dường Phật, họ đã được chỉ con đường giác ngộ, nay mong tiến bước đạt tới Chân Lý

Ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem tất cả đại chúng và các tòa sư tử để trên tay hữu đi đến chỗ Phật, tất cả cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi đứng qua một bên. Theo phong tục tập quán Ấn Ðộ thời bấy giờ, để tỏ lòng tôn kính Phật hoặc một vị giáo chủ, các đệ tử cúi đầu đảnh lễ, trán hai tay hai chân phải chạm đất (ngũ thể đầu địa), đi quanh bên hữu bảy vòng, rồi chắp tay đứng sang một bên. Sau đó hai bên mới bắt đầu thưa hỏi và trả lời. Ở đây, Ðức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất là vị đại đệ tửtrí huệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn, có thấy thần lực của Bồ Tát Ðại Sĩ Duy Ma Cật chăng? Ngài Xá Lợi Phất tán thán oai lực tự tại đó không thể nghĩ bàn được. Rồi đến ông A Nan, vị đệ tử nổi tiếngđa văn đệ nhất trong hàng Thanh Văn, ngửi thấy mùi hương thơm từ xưa chưa từng có, không biết là mùi hương gì ? Ngài Xá Lợi Phất nói lỗ chân lông của chúng tôi cũng có mùi hương thơm đó, do được ăn cơm thơm do ông Duy Ma Cật xin ở cõi Chúng Hương về, nên có mùi thơm như vậy. Mùi thơm này kéo dài cho đến khi cơm đó tiêu, nghĩa là khi hàng Thanh Văn phát tâm tu theo Ðại Thừa, được vào chánh vị, giải thoát, được vô sinh nhẫn, chỉ còn một đời là được thành Phật. Cơm thơm này chính là giáo lý Nhất Thừa Phật Ðạo, có công năng đưa hàng Thanh Văn tới quả vị Phật, ví như thuốc tốt trừ được các chứng nan y gây bệnh nơi thân, diệt trừ các phiền não gây khổ trong tâm, xé màn vô minh đưa chúng sinh ra khỏi luân hồi sinh tử

Ðây là pháp môn phương tiện tu hành đặc biệt của chúng sinh cõi Chúng Hương chỉ ăn cơm thơm, ngửi mùi hương ngồi dưới cây hương mà được tam muội đầy đủ công đức của Bồ Tát. Còn ở cõi Ta Bà cùng các cõi khác thì chư Phật dùng mọi phương tiện tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh địa phương mà làm Phật sự, dẫn dắt chúng sinh đi trên đường chân chánh tu hành. Có cõi lấy ánh sáng của Phật hoặc thân Phật mà làm Phật sự, có cõi lấy Bồ Tát, lấy cây bồ đề, lấy cơm ăn, lấy mộng huyễn, lấy tiếng nói văn tự, có cõi dùng thanh tịnh vắng lặng... mà làm Phật sự. Tóm lại, tất cả mọi oai nghi đi đứng ngồi nằm, các việc thi vi nhỏ nhặt của chư Phật đều là Phật sự cả. Ðây là ý nghĩa câu: Tất cả các việc đều là việc Phật, tất cả các pháp đều là Phật Pháp. Mỗi việc, mỗi pháp, dù thuận dù nghịch, nếu khéo dùng đúng thời, đúng căn cơ đều có tác dụng ích lợi để giáo hóa chúng sinh

Cũng có khi Phật dùng các ma chướng phiền não để làm Phật sự, đây là phương pháp dùng nghịch cảnh để thử thách người tu hànhnhẫn nhục kiên gan bền chí không? Bồ Tát cần phát tâm thanh tịnh vô phân biệtlàm Phật sự, dù thấy cõi Phật nghiêm tịnh cũng không mừng, không ham muốn kiêu mạn; dù thấy cõi Phật bất tịnh cũng không lo không ngại không chán, lúc nào cũng ngợi khen công đức chư Phật chưa từng có, bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng sinh tâm tính khác biệt mà phương tiện hiện ra các cõi Phật không đồng. 

Ba danh từ Tam Miệu Tam Phật Ðà, Ða Ðà A Dà Ðộ và Phật Ðà là để tôn xưng những vị đã hoàn toàn giác ngộgiải thoát, nghĩa là đắc quả Phật. Tam Miệu Tam Phật Ðà nói cho đủ là A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Phật Ðà, phiên âm chữ Phạn Anudhara Samma Sam Buddha, dịch nghĩa là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vô Thượng là không ai cao hơn, Chánh Ðẳng là có địa vị chân chánh nhất, để phân biệt với hàng Duyên Giác mới giác ngộ đẳng phần, từng phần (phần giác), Chánh Giácgiác ngộ, hiểu biết sáng suốt chân chánh, để phân biệt với hàng Thanh Văn hãy còn hiểu biết lệch lạc (thiên giác). Ngoài ra còn hai nghĩa nữa là Chánh Biến GiácChánh Biến Tri: hiểu biết chân chánh cùng khắp các pháp, mọi sự mọi vật

Ða Ðà A Dà Ðộ, phiên âm chữ Phạn Tathagata, dịch nghĩa là Như Lai, Như Như Bất Ðộng, Lai Thành Chánh Giác, là người giữ được tâm không động, không từ đâu đến, không đi đâu, đã được giác ngộ chân chánh. Như Lai là một trong mười đanh hiệu để tôn xưng Ðức Phật. 

Phật Ðà, phiên âm chữ Phạn Buddha, dịch nghĩa là Giác Giả, là người đã hoàn toàn giác ngộ, hiểu biết Chân Lý tuyệt đối. Chúng ta thường đọc là Phật hay Bụt. 

Ðức Thích Ca tán thán công đức trí huệ của mười phương chư Phật vô ngại không thể nghĩ bàn. Thấy oai đức của chư Phật lớn lao như vậy, thấy giáo lý Ðại Thừa cao siêu nhiệm mầu nên ông A Nan đem lòng sợ hãi, hổ thẹn, bị nhiếp phục, kbông dám tự nhận là đa văn nữa. Ða văn là nghe nhiều, nhớ kỹ, học rộng, ông A Nan tuy đa văn nhưng chưa phát tâm tu hành rốt ráo nên chưa chứng quả A La Hán, trong khi đó nhiều đệ tử khác của Phật, tuy tài học kém ông A Nan nhưng nhờ quyết tâm tu tập công phu nên đã chứng quả A La Hán

Ðoạn này nói riêng về ông A Nan nhưng ám chỉ những hàng Thanh Văn chỉ ham học rộng nghe nhiều mà không chịu tu hành các pháp môn thù thắng. Ông A Nan hối hận tự thú lỗi mình, hứa từ nay xin chừa không dám nhận là đa văn, không chấp vào việc chỉ học mà không tu. Ðức Phật an ủi: “Chớ khởi tâm thối lui nản chí. Ta nói ông đa văn hơn hết trong hàng Thanh Văn, chứ không phải đối với hàng Bồ Tát. Chư Bồ Táttrí huệ biện tài, công phu thiền định rộng sâu không thể nghĩ bàn, hàng Thanh Văn không sao bằng được. Hãy để riêng việc Bồ Tát ra, ông Cư Sĩ Duy Ma Cật đây hiện bày sức thần thông trong một lúc mà tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật trải trăm ngàn kiếp tận lực biến hóa đều không làm được.”

Đức Phật đề cao hàng Bồ Tát là để khuyến khích hàng Thanh Văn bỏ chí hèn kém, được chút ít cho là đủ, nay phải phát tâm tu hành thêm nữa, tiến tới quả vị Bồ Tát và Phật. Lúc đó các Bồ Tát ở cõi Chúng Hương tự hối đã khinh thị cõi Ta Bà xấu xa thấp kém, nay biết là do Phật phương tiện làm ra vậy để hợp với căn cơ chúng sinh, nay cúi xin Phật dạy cho một pháp để đem về cõi Chúng Hương tu hành, nghĩ nhớ đến Phật Thích Ca, ví như hiện thời chúng ta đi du lịch nơi xa, mua quà kỷ niệm đem về để nhớ đến nơi vừa đi thăm. Ðức Thích Ca liền dạy pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát

Tận là pháp hữu vi, Vô Tậnpháp vô vi. Không tận hữu vi, không trụ vô vi thì được giải thoát

Các pháp hữu vi là các việc làm sắc tướng, còn có ý mong cầu, thấy có việc làm, có pháp môn tu, có quả vị chứng. Các pháp vô vi là các việc làm thanh tịnh, không còn chấp sắc tướng, làm mà không thấy làm, vô cầu, vô chứng, vô đắc. Thông thường thì người tu hành lìa bỏ các pháp hữu vi và tu theo các pháp vô vi. Nhưng ở đây, các Bồ Tát không tận hữu vi, là có ý dạy người tu hành đừng khởi tâm phân biệt, cứ an nhiên làm tất cả mọi việc lành tốt để cầu nhất thiết trí, hành các pháp môn để cứu giúp chúng sinh. Ðó là đứng về phần tướng, không bỏ qua một việc tốt nào mà không làm. Còn không trụ vô vi là tuy tu ba môn Không, Vô Tướng, Vô Tác mà không lạc vào chỗ chấp không; tuy chứng vô sinh mà vẫn không chấp có tu có chứng. Tuy biết mọi sự mọi vật vô thường mà vẫn làm các việc lành, tuy biết cuộc đời là khổ mà vẫn không ghét sinh tử, tuy biết chúng sinh vô ngã mà vẫn dạy dỗ dắt dìu... Ðây là người đã kiến tánh, nhưng vẫn không lìa tướng, vẫn tu vẫn hành, lìa hai bên chấp có chấp không, giữ vững lý trung đạo. Ðứng về tướng, chẳng chấp có nhưng không bỏ một việc phước nhỏ; đứng về tánh, chẳng chấp không mà vẫn làm các hạnh lành, tu mọi pháp thiện. Ðức Phật thường răn dạy các đệ tử đừng khinh chê phước nhỏ mà không làm, một bữa nọ, trên đường đi thuyết pháp, Phật dừng chân xỏ kim giùm một bà lão kém mắt, nói vài lời mộc mạc khuyên bảo mấy em nhỏ chăn trâu; cộng nhiều phước nhỏ thành phước lớn, nếu chê phước nhỏ không làm, lấy đâu phước lớn, nhưng làm mọi việc lành mà không chấp, không mong cầu thì mới là tốt. Tuy quán Không, biết mọi sự mọi vật là giả huyễn, nhưng không vì vậy mà chẳng chịu làm gì, thấy việc lành là làm, thấy ai cần là giúp, đó là lòng Ðại Bi của chư Bồ Tát. Làm được mọi việc lợi ích chúng sinh mà lòng không chấp trước, không mong cầu, đó gọi là Bồ Tát không tận hữu vi, không trụ vô vi. Ðó gọi là pháp môn Tận, Vô Tận Giải Thoát

Các Bồ Tát nước Chúng Hương nghe Phật nói pháp này rồi hết sức vui mừng, đem các hoa báu đủ mầu rải khắp tam thiên đạì thiên thế giới cúng dường Phật, kinh Pháp này cùng các Bồ Tát, lễ Phật tán thán rồi bỗng nhiên biến trở về cõi Chúng Hương. Các vị Bồ Tát này được Ðức Phật Thích Ca khai ngộ cho, bỏ lòng kiêu mạn, hết tâm khinh chê lớn nhỏ sạch uế, rải hoa cúng dường Tam Bảo Phật Pháp Tăng tỏ lòng quy y kính ngưỡng, trở về cõi Chúng Hương, nghĩa là trở về quê cũ, trở về Bản Tâm thanh tịnh vô phân biệt

Ðoạn kinh này chỉ dạy người tu đừng quá thiên về Lý mà bỏ Sự, đừng quá nghiêng về Tánh mà quên Tướng, vẫn làm các Sự Tướng mà không rời Lý Tánh, thì công phu tu hành mới gọi là viên dung, sớm thành Phật Ðạo. Nhưng sau khi đã thành tựu mọi công đức, dứt trừ vi tế vô minh, Bồ Tát sắp bước vào cửa Phật, đưa mắt nhìn xuống cõi trần thấy chúng sinh còn đang ngụp lặn trong bể khổ trầm luân mong được cứu vớt, Ngài ung dung tự tại quay gót trở lại trần gian với nụ cười đầy từ bi hỷ xả, phát nguyện lớn độ hết chúng sinh rồi Ngài mới thành Phật. Vô ngã lợi tha, quên mình vì người, đó là Hạnh Bồ Tát. Do đó phẩm này được đặt tên là Hạnh Bồ Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188699)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43806)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25048)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30807)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21024)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38745)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27367)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31088)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33097)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23958)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16967)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20501)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31899)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18081)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20543)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27016)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18043)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25547)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26632)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36581)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28047)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27280)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30324)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37098)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37249)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23864)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32276)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55132)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36902)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27565)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28300)
Công Phu Khuya
(Xem: 37938)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25398)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24129)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11227)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14498)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10621)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant