Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tiên Nhơn Ca Diếp Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ

05 Tháng Tư 201609:16(Xem: 11481)
Kinh Tiên Nhơn Ca Diếp Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ

KINH TIÊN NHÂN CA-DIẾP NÓI PHƯƠNG THUỐC CHO NGƯỜI NỮ

 

 

Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691.

Tây Thiên dịch kinh Tam tạng Triêu Tán Đại Phu Thí Quang Lục Khanh,

Minh Giáo Đại Sư Thần Pháp Hiền phụng chiếu dịch Phạn-Hán.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover Đức Quốc

 Việt dịch tại Thư phòng Viên Giác 05.10.2007.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính lần thứ nhất xong ngày 31.3.2016.

 

--------------ooo---------------

 

 

    Lúc ấy Tiên nhân Nhĩ-Phược-Ca chợt nghĩ thế này: Chúng sinh thế gian đều từ người nữ mà sinh thân, mà người nữ từ khi bắt đầu mang thai đến đủ mười tháng, hoặc lại kéo dài đến mười hai tháng mới sinh sản; trong khoảng giữa hoặc có bệnh hoạn, khi bệnh hoạn chịu cực đau khổ. Ta nay phương tiện thưa hỏi Thầy, vâng nhận phương thuốc để chữa trị.

    Nghĩ như thế rồi, liền đến chỗ Thầy là Tiên nhân Ca-Diếp, gần gũi lễ bái  mà hỏi rằng:

    Đại Sư Ca-Diếp là bậc đại trí, con nay có điều muốn thưa hỏi, cúi xin Ngài nghe và hứa khả cho!

    Tiên nhân Ca-Diếp nói: Tùy ý ông hỏi.

    Lúc ấy Tiên nhân Nhĩ-Phược-Ca thưa rằng:

    Người nữ mang thai thời gian phải mười tháng hoặc mười hai tháng, đủ ngày mới sinh, vì sao trong khoảng ấy có các bệnh hoạn làm cho thai tạng chuyển động chẳng an, hoặc có tổn hại thì khổ não vô lượng? Thầy của con là bậc đại trí, nguyện vì tuyên nói phương thuốc trị liệu bệnh khổ như thế! Hỏi như thế rồi, yên lặng lắng nghe.

    Lúc ấy, Tiên nhân Ca-Diếp bảo Tiên nhân Nhĩ-Phược-Ca rằng:

    Người nữ mang thai không biết bảo vệ, khiến cho thai tạng không được an ổn. Ta nay vì ông mà nói lược phương thuốc bảo vệ theo tháng. Người mang thai, trong tháng thứ nhất mà thai tạng không an, thời phải dùng hương Chiên đàn, hoa Sen và hoa Ưu-bát-la ngâm vào nước, nghiền chung, sau cho vào sữa tương, sữa đường cùng nấu. Thuốc này uống ấm, có thể khiến người mới mang thai không có các tổn não mà được an ổn.

   Lại bảo Tiên nhân Nhĩ-Phược-Ca rằng: Người nữ mang thai ở tháng thứ hai, nếu thai tạng không an, phải dùng hoa Ưu-bát-la xanh, rễ cây hoa Câu-mẫu-na, các loại thuốc: Lăng-giác, Nhân yết, Vi-lỗ-ca, các phần thuốc này bằng nhau, đâm nghiền, sàng lọc làm bột, dùng sữa tương nấu, để lạnh. Dùng thuốc này có thể khiến thai tạng không tổn hoại, đau đớn ngưng dứt, ngày đêm an ổn.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ ba, nếu thai tạng không an, phải dùng các loại thuốc: Ca-câu-lân, Sất-la ca-câu-lân và rễ cây Mè, các phần bằng nhau, dùng nước hòa trộn, đâm nghiền khiến cho rất nhuyễn, lại cho vào sữa nước cùng nấu cho chín, sau đó cho vào sữa đường và mật, hòa trộn rồi để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt  đau đớn, hoặc có lo lắng bệnh hoạn hãy dùng thuốc an này.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ tư, nếu thai tạng không an, phải dùng rễ cỏ Tật-lê cùng với cành, lá, hoa Bát-la cùng với thân gốc, các phần tương đương, dùng nước hòa trộn, đâm nghiền khiến cực nhuyễn, lại dùng sữa mà cùng nấu cho chín, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, có lo lắng, bệnh hoạn mà dùng thời được an ổn.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ năm, nếu thai tạng không an, phải dùng rễ cây Khỏa tử và hoa Ưu-bát-la, mỗi loại dùng phần bằng nhau, đâm nghiền cho nhuyễn, sau cho vào nhựa cây cỏ Bồ và sữa tương, sữa đường cùng nấu, sau đó để nguội mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, nếu có lo lắng, bệnh hoạn dùng thì được an ổn.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ sáu, nếu thai tạng không an, phải dùng thuốc Bế-a-la, Tử-ma- địa, Già-la-nặc, Tát-ngật-đa-phược, phần lượng bằng nhau, lấy nước hòa trộn, nghiền cực nhuyễn, lại cho vào sữa nấu chung, sau đó cho vào sữa đường và mật, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, nếu có lo lắng bệnh hoạn mà uống thời được an ổn.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ bảy, nếu thai tạng không an, phải dùng cành, lá cỏ Tật-lê cùng với rễ, đâm nhuyễn như bột, dùng sữa đường và mật làm thành viên uống chung với nước thịt; lại dùng nước thịt trộn cơm mà ăn, hoặc ăn cơm cháo đậu xanh. Thuốc và cơm này có thể an thai tạng, có lo lắng bệnh hoạn mà dùng thời được an lạc.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ tám, nếu thai tạng không an, phải dùng thuốc Hàm nga, hoa Sen, hoa Ưu-bát-la xanh, cỏ Tật-lê, các phần bằng nhau, dùng nước lạnh hòa trộn, đâm nghiền cho cực nhuyễn, sau đó cho vào sữa tương và đường, mật cùng nấu, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, có lo lắng bệnh hoạn mà uống thời được an lạc.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ chín, nếu thai tạng không an, phải dùng rễ rễ cây và thuốc Ca-câu-lân, thuốc Xá-la-bát-diệc-ni, thuốc Một-li-hạ-để, các phần bằng nhau, dùng nước lạnh hòa trộn, đâm nghiền cho cực nhuyễn, cho vào sữa tương cùng nấu, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, người bệnh uống sẽ được an lạc.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng thứ mười, nếu thai tạng không an, phải dùng đậu xanh, hoa Ưu-bát-la, các phần bằng nhau, dùng nước lạnh hòa trộn, đâm nghiền cho thật nhuyễn, sau đó cho vào sữa, đường, mật và sữa tương cùng đun, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, người bệnh uống thời được an ổn.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng mười một, nếu thai tạng không an, phải dùng hoa Ưu-bát-la xanh, thuốc Bà-lộ-cương, hoa Sen với cành, các phần bằng nhau, dùng nước lạnh hòa trộn, đâm nghiền cho thật nhuyễn, sau đó cho vào sữa tương, sữa đường cùng đun, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, người bệnh hoạn dùng thời được an lạc.

    Lại nữa, người nữ mang thai đến tháng mười hai, nếu thai tạng không an, phải dùng thuốc Ca-câu-lân, thuốc Thổ-la Ca-câu-lân, Cam thảo, hoa Ưu-bát-la, mỗi phần bằng nhau, đâm nghiền cho nhỏ, dùng nước nghiền chung, sau đó cho vào sữa tương hòa trộn cùng nấu, để lạnh mà uống. Thuốc này có thể an thai tạng, ngưng dứt đau đớn, người bệnh hoạn dùng thời được an ổn.

    Lúc bấy giờ, Tiên nhân Nhĩ-Phược-Ca nghe Thầy nói pháp bảo dưỡng người nữ mang thai rồi, hoan hỉ tin nhận, làm lễ mà lui.

 

 

KINH TIÊN NHÂN CA-DIẾP NÓI PHƯƠNG THUỐC CHO NGƯỜI NỮ

 Sửa chính tả: Phật Tử Thanh Phi

   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25397)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13782)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15096)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17702)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17114)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14213)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14456)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19763)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16753)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18627)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19066)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18871)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21177)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14805)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39188)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14410)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19376)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14717)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16150)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14709)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15236)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14912)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15569)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39152)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14129)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24520)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14395)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19463)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21469)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19699)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17520)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14844)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13887)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13767)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14116)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21915)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16755)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14542)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14059)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14362)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15680)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15022)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18567)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23127)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28565)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15076)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14127)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14649)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18313)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26527)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15204)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14855)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15209)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15146)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
(Xem: 15558)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant