Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

So Sánh Kinh Bệnh (s.v,81) Trong Tương ƯngBản Kinh Tương Đương Trong Hán Tạng.

27 Tháng Tư 201614:17(Xem: 12135)
So Sánh Kinh Bệnh (s.v,81) Trong Tương Ưng Và Bản Kinh Tương Đương Trong Hán Tạng.

SO SÁNH KINH BỆNH (S.v,81) TRONG TƯƠNG ƯNG
BẢN KINH TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG HÁN TẠNG.

Chúc Phú


So Sánh Kinh Bệnh (s.v,81) Trong Tương Ưng Và Bản Kinh Tương Đương Trong Hán Tạng.


Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo. Trong kho tàng kinh điển Phật giáo, thì một phần di sản của hai truyền thống kinh điển Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādins) và Thượng tọa bộ (Theravādins) còn được lưu lại đến hôm nay trong Hán tạng và Nikāya.

Do đặc thù từ mỗi truyền thống kiết tập, thế nên có những bản kinh tuy cùng phản ánh một sự kiện, một nội dung nhưng lại khác biệt về tên gọi, kết cấu, nhân vật…Việc chỉ ra những điểm giống nhau cũng như khác biệt giữa hai truyền thống kinh điển này, đã được nhiều học giả trên thế giới và ngay cả Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện[i], nhằm góp phần đưa Phật giáo phục hồi trở lại với vinh quang và nguồn sinh lực nguyên thủy[ii].

Với tinh thần đó, chúng tôi thử khảo sát về bài kinh Bệnh trong Tương Ưng (S.v,81)[iii]bản kinh tương đương trong Hán tạng[iv], được gợi mở từ dòng ghi chú ngắn cuối bản kinh của dịch giả, là hòa thượng Thích Minh Châu[v].

1. Nội dung hai bản kinh.

1.1.          Kinh Tương Ưng.

1) Một thời Thế TônVương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.

3) Rồi Tôn giả Mahā Cunda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

4) Thế Tôn nói với Tôn giả Mahā Cunda đang ngồi một bên:

-- Này Cunda, hãy thuyết về giác chi.

5) -- Bạch Thế Tôn, có bảy giác chi này do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy? Bạch Thế Tôn, niệm giác chi do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn... Bạch Thế Tôn, xả giác chi do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Bạch Thế Tôn, bảy giác chi này do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

-- Thật vậy, này Cunda, chúng là giác chi. Thật vậy, này Cunda, chúng là giác chi.

6) Tôn giả Mahā Cunda thuyết như vậy, bậc Đạo Sư chấp nhận. Và Thế Tôn thoát khỏi bệnh ấy. Bệnh ấy của Thế Tôn được đoạn tận như vậy.[vi]

1.2. Kinh Tăng-nhất- A-hàm, quyển 33, phẩm Đẳng pháp, kinh số 6.

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Vào lúc bấy giờ, Tôn giả Quân-đầu thân mang bịnh nặng, nằm liệt giường, không thể tự ngồi dậy. Khi ấy, Quân-đầu nghĩ: “Hôm nay ta không được Thế Tôn Như Lai rủ lòng thương xót. Ta đang gặp bệnh nặng, không còn sống bao lâu nữa. Thuốc thang không tiếp. Lại nghe Thế Tôn nói: ‘Còn một người chưa độ, Ta quyết không bỏ.’ Song nay chỉ một mình ta bị bỏ rơi. Còn khổ nào hơn!”

Bấy giờ, Thế Tôn dùng thiên nhĩ nghe được lời oán trách của Tỳ-kheo Quân-đầu. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi hãy tụ họp đi đến chỗ Tỳ-kheo Quân-đầu, hỏi thăm bệnh Tỳ-kheo ấy.”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Thưa vâng, Thế Tôn!”

Rồi Thế Tôn dẫn các Tỳ-kheo đi lần đến phòng Tỳ-kheo Quân-đầu. Quân-đầu từ xa nhìn thấy Như Lai đến, liền tự gieo mình xuống đất. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Quân-đầu:

“Nay ngươi mang bệnh rất là nặng, không cần xuống giường. Ta tự có chỗ ngồi.”

ThếTôn bảo Quân-đầu:

“Bệnh của ngươi tăng hay giảm, hay không tăng giảm? Ngươi có thể nghe Ta dạy được không?”

Tỳ-kheo Quân-đầu bạch Phật:

“Bệnh hôm nay của đệ tử rất nặng, chỉ có tăng, không có giảm. Thuốc uống không thấm vào đâu.”

Thế Tôn hỏi:

“Người chăm sóc bệnh là ai vậy?”

Quân-đầu bạch:

“Các vị phạm hạnh đến, gặp thì chăm sóc.”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Quân-đầu:

“Nay ngươi có thể nói cho Ta nghe bảy giác chi không?”

Quân-đầu nêu tên bảy giác chi ba lần:

“Nay con có thể ở trước Như Lai nói pháp bảy giác chi.”

Thế Tôn bảo:

“Nếu có thể nói cho Như Lai nghe thì cứ nói.”

Quân-đầu bạch Phật:

“Bảy giác chi. Những gì là bảy? Như Lai đã nói, đó là niệm giác chi, pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi. Bạch Thế Tôn, nói là có bảy giác chi này, chính là như vậy.”

Sau khi Tôn giả Quân-đầu nói những lời này xong, mọi bệnh tật đều được trừ khỏi, không còn khổ não. Bấy giờ,Quân-đầu bạch Thế Tôn:

“Hiệu nghiệm nhất trong các thứ thuốc, đó chính là pháp bảy giác chi này. Muốn nói là thuốc hay nhất không qua bảy giác chi này. Con nhờ tư duy về bảy giác chi mà bệnh gì cũng khỏi cả.”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi thọ trì pháp bảy giác chi này, khéo nhớ phúng tụng,chớ có hồ nghi đối với Phật, Pháp, Tăng. Mọi bệnh họan của chúng sanh kia được trừ khỏi. Vì sao vậy? Vì bảy giác chi này rất khó lường hết, nhưng nhờ đó tất cả các pháp đều được thấu rõ, hết thảy các pháp đều được soi sáng. Cũng như thuốc hay chữa trị hết thảy các bệnh. Giống như cam lồ ăn không biết chán. Nếu không được bảy giác chi này, các loài chúng sanh sẽ trôi lăn sanh tử. Các Tỳ-kheo, hãy tìm cầu phương tiện tu bảy giác chi.

“Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”

Các Tỳ-kheo, sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành[vii].

2. Sự giống nhau và khác biệt giữa hai bản kinh

2.1.          Sự giống nhau.

-         Về tuyến nhân vật: gồm Đức Phật và Mahā Cunda (bản Hán ghi là Quân-đầu).

-         Về thất giác chi: Gồm, niệm; trạch pháp; tinh tấn; hỷ; khinh an; định và xả.

-         Người trì tụng thất giác chi: Māha Cunda.

-         Đức Phật xác tín vai trò của thất giác chi.

2.2.          Sự khác biệt.

-         Về địa điểm. Tương Ưng ghi: tinh xá Trúc Lâm thuộc thành Vương-xá. Tăng-nhất-A-hàm ghi: vườn Cấp-cô-độc, thuộc nước Xá-vệ.

-         Về người bệnh: theo kinh Tương ƯngĐức Phật. Theo Tăng-nhất-A-hàmtôn giả Quân-đầu.

-         Sau khi nghe Māha Cunda thuyết Thất giác chi, kinh Tương Ưng ghi: Đức Phật khỏi bệnh. Tăng-nhất-A-hàm ghi: Tôn giả Quân-đầu khỏi bệnh.

-         Tăng-nhất-A-hàm ghi nhận Đức Phật khuyến tấn trì tụng Thất giác chi. Kinh Tương Ưng không có chi tiết này.

Mặc dù có bốn điểm giống nhau và bốn điểm khác biệt trong hai bản kinh này, thế nhưng nội dung giống nhau chủ yếu mà cả hai bản kinh cùng đề cập, đó chính là vấn đề bệnh tật, được nghe thất giác chi và sau đó lành bệnh. Sự khác biệt quan trọng giữa hai bản kinh là: một bên Đức Phật bị bệnh và một bên là tôn giả Quân-đầu.

Trong việc tìm kiếm tính logic nội tại từ câu chuyện này, việc tìm hiểu nhân thân của tôn giả Mahā Cunda là tiền đề góp phần vén bức màn bí ẩn của sự kiện.

3. Về tôn giả Mahā Cunda.

Theo khảo sát, trong kinh tạng Nikāya có nhiều nhân vật cùng mang tên Cunda như sau:

-         Tên người thợ rèn (kammāraputta) ở Pāvā.

-         Sa-di Cunda (Cunda-Samaṇuddesa).

-         Mahā Cunda.

-         Cūla Cunda.

Theo khảo cứu của G. P Malalasekera (1899-1973) trong Từ điển Phật học nhân xưng Pāli (Buddhist Dictionary of Pali Proper Names), ngoại trừ người thợ rèn, thì ba nhân vật Sa-di Cunda, Mahā Cunda và Cūla-Cunda đều chỉ cho một người[viii]. Chúng tôi đã xem lại cơ sở tham chiếu của chiếu của G. P Malalasekera và các nguồn tư liệu đều khẳng định rằng, Mahā Cunda chính là người em trai của tôn giả Sāriputta.

Theo tư liệu Jataka[ix]Trưởng lão Tăng kệ[x], tôn giả Mahā Cunda đã từng làm thị giả cho Đức Phật. Ngay trong chuyến du hành cuối cùng về Kusinārā, tôn giả Mahā Cunda là người xếp áo Saṇghāti làm bốn để Như Lai nghỉ ngơi sau khi vượt sông Kakutthā[xi].

Đặc biệt, sau khi tôn giả Sāriputta viên tịch ở làng Nāla thuộc vương quốc Magadha, chính tôn giả Mahā Cunda đã giữ gìn y bát của ngài Sāriputta, sau đó đem về tinh xá của ông Cấp-cô-độc ở Sāvatthi, để trình với ngài Ānanda đầu tiên[xii]. Cần phải thấy, tôn giả Sāriputta là một cao đồ của Đức Phật, sự viên tịch của tôn giả làm cho chúng tỳ-kheo dường như trống không[xiii]. Tuy nắm giữ thông tin về sự kiện tôn giả Sāriputta viên tịch mà nhiều người muốn biết, nhưng Mahā Cunda vẫn theo phép thầy trò, thưa chuyện với ngài Ānanda trước, để rồi sau đó được ngài Ānanda dẫn đến hầu Phật, nhằm trình bày câu chuyện cụ thểchi tiết hơn.

Cũng liên hệ với tôn giả Ānanda, trong thời gian an cư ở Pāvā, tôn giả Mahā Cunda biết tin giáo chủ Nigaṇṭha Nātaputta vừa viên tịch và các đệ tử của giáo phái này đã xung đột, tàn hại lẫn nhau. Ưu tư trước sự kiện này, liên hệ đến viễn tượng Đức Phật viên tịch; thế nên sau khi kết thúc mùa an cư ở Pāvā, Sa-di Cunda đã nhanh chóng đến Sāmāgama để thưa chuyện với tôn giả Ānanda. Sự kiện giáo chủ Nigaṇṭha Nātaputta qua đời và nỗi lo lắng của Sa-di Cunda được kinh Trường Bộ[xiv] và kinh Trung Bộ[xv] cùng ghi nhận.

Trong cả hai sự kiện quan trọng vừa nêu, tôn giả Mahā Cunda đều trực tiếp thưa với ngài Ānanda đầu tiên và sau đó, được ngài Ānanda dẫn đến hội kiến Đức Phật. Trình tự diễn tiến này là cơ sở để G. P Malalasekera cho rằng, ngài Ānanda là thầy tế độ của Sa-di Cunda[xvi].

Ở đây, trong nội dung câu chuyện được ghi nhận ở kinh Bệnh (S.v.81) ở trên, tôn giả Mahā Cunda hay tin Đức Phật lâm bệnh liền tự tiện đến thăm. Liên hệ đến phép ứng xử đúng mực với thầy của mình là tôn giả Ānanda, qua hai trường hợp vừa dẫn, thì sự việc Mahā Cunda tự mình đến thăm Đức Phật dường như là một ngoại lệ. Điều này sẽ được làm sáng tỏ hơn khi xem xét một vài trường hợp liên quan đến bệnh tật của đức Thế Tôn

4. Tâm thế khi Đức Phật lâm bệnh.

Với cấu trúc bằng tứ đại, thân thể của Đức Phật cũng tổn hại va hư hao cùng năm tháng. Sự ngạc nhiên của ngài Ānanda và câu trả lời của Đức Phật đã nói rõ hơn về thực tế nghiệt ngã này:

- Thật kinh hoàng thay, bạch Thế Tôn! Thật kỳ dị thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh, trong sáng, tay chân rã rời (sithilāni), nhăn nheo, thân được thấy còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.

- Sự thể là vậy, này Ānanda, tánh già nằm trong tuổi trẻ; tánh bệnh ở trong sức khỏe; tánh chết ở trong sự sống. Như vậy, màu da không còn thanh tịnh, trong sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn[xvii].

Câu chuyện này đã cho thấy, có thân tứ đại, tất sẽ bị hư hoại theo quy luật tự nhiên hoặc do những yếu tố khác.

Trong kinh điểnluật tạng ghi nhận nhiều trường hợp đức Thế Tôn bị bệnh, và hầu hết các trường hợp đều do ngự y Jīvaka điều trị, chăm nom. Trong những lần thân tứ đại lâm bệnh, thì trường hợp Đức Phật bị thương ở chân do Devadatta xô đá, là một sự kiện phản ánh tầm mức vĩ đại của một bậc vĩ nhân.

Kinh Miếng đá vụn,  Tương Ưng (S.i.27) ghi :

Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não[xviii].

Đoạn kinh trên nhấn mạnh rằng, dù bị miếng đá vụn đâm phải, và đức Thế Tôncảm thọ khó chịu về thân (sārīrikā vedanā dukkhā) nhưng Ngài đã chánh niệm tỉnh giác (sato sampajāno), nhẫn chịu (adhivāseti) và không phiền não (avihaññamāno).

Chứng kiến sự kiện này, bảy trăm quần tiên Satullapakāyikā đã thay nhau tán thán:

Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng… là bậc Sư tử…là Lương tuấn mã….là bậc Ngưu vương…là bậc Nhẫn nại Kiên cường... bậc Khéo điều phục…..Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau... không có phiền não[xix].

Trong Cullavagga, chương Chia rẽ hội chúng và  Tích truyện Pháp[xx] đều ghi nhận sự kiện này với những cách thức biểu đạt rất mực sinh động.

Trở lại với nội dung chính, tức câu chuyện được ghi lại trong kinh Tương Ưng (S.v.81), ghi rằng:

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bị bệnh (ābādhiko), khổ đau (dukkhito), bị trọng bệnh (bāḷhagilāno).

Vế sau của câu kinh này thường xuất hiện trong những câu chuyện liên quan đến bệnh tật, từ bậc xuất gia cho đến hàng cư sĩ như tôn giả Vakkali (S.iii,119)[xxi]; tôn giả Assaji (S.iii,124)[xxii]; tôn giả Khemaka (S.iii,126)[xxiii], cư sĩ Dīghāvu (S.v,344)[xxiv], cư sĩ Anāthapiṇḍika (S.v,380)[xxv]…với cấu trúc sau: 1. tên một người nào đó; 2. bị bệnh; 3. bị khổ đau; 4. bị trọng bệnh (…ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno).

Trong khi đó, theo kinh Miếng đá vụn (S.i.27), cho dù thân thể cảm thọ khó chịu, nhưng Ngài đã chánh niệm tỉnh giác (sato sampajāno), nhẫn chịu (adhivāseti) và không phiền não (avihaññamāno).

Cần phải thấy, một bậc đã giác ngộ viên mãn như Đức Phật, hoàn toàn tự chủ lẽ sống chết, làm chủ cả thân và tâm, thì không lý nào phải nhờ một vị xuất gia như Mahā Cunda trùng tuyên lại một nội dung giáo pháp, mà chính Ngài là người đã phát hiện, chứng nghiệm và tuyên thuyết! Không những vậy, bậc Y vương như Đức Phật không cần ai bảo hộ mạng sống, dù đó là hàng đệ tử, như lời Ngài đã dạy trong kinh Tăng Chi:

Mạng sống của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: "Mạng sống của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm". Các đệ tử không có che chở Ta về mạng sống, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở cho Ta về mạng sống[xxvi]. Từ câu kinh này cho thấy, việc nhờ đệ tử Mahā Cunda tụng thất giác chi để Thế Tôn lành bệnh, là câu chuyện không có cơ sở.

 Như vậy, trong sự kiện Đức Phật bị bệnh ở kinh Tương Ưng (S.v.81), có khả năng tên của Đức Phật bị nhầm lẫn với tôn giả Mahā Cunda. Khi đối chiếu với bản kinh chữ Hán tương đương, thì câu chuyện này có sự thay đổi vài chi tiết quan trọng.

5. Tính hợp lý, sinh động của bản kinh chữ Hán.

Kinh Tăng-nhất-A-hàm, quyển 33, phẩm Đẳng pháp, kinh số 6, có nội dung tương tự kinh Tương Ưng (S.v,81). Để tiện việc theo dõi, chúng tôi xin được tóm tắt  bài kinh như sau:

Tôn giả Quân-đầu bệnh nặng, tư duy tiêu cực, nghĩ rằng bị đức Thế Tôn bỏ rơi, ngập tràn khổ não. Bằng thiên nhĩ siêu việt, đức Phật nghe được những lời bi lụy này và dạy các tỳ-kheo cùng đến thăm bệnh tôn giả.

Sau thông lệ thăm hỏi bệnh tình, Đức Phật bảo Quân-đầu: Ông có thể nói cho Ta nghe bảy giác chi không?

Theo yêu cầu của Phật, Quân-đầu trùng tụng bảy giác chi ba lần và sau đó mọi tật bệnh của tôn giả đều được dứt sạch.

Đức Phật tán thán giá trị tối thắng của bảy giác chi và khuyến tấn các tỳ-kheo nên phát tâm hành trì[xxvii].

Theo tư liệu Nikāya đã chứng minh ở trên, tôn giả Mahā Cunda còn là Sa-di trong thời điểm anh trai ngài là tôn giả Sāriputta viên tịch, và sau đó vài tháng Đức Phật cũng nhập Niết bàn. Nếu đó là sự thật, tức Mahā Cunda còn là sa-di khi Phật còn tại thế, thì dễ hiểu tại sao tôn giả có những tư duy bi lụy, khổ đau trong khi thân lâm trọng bệnh như kinh Tăng-nhất-A-hàm đã chỉ ra.

Việc tôn giả Quân-đầu theo lời dạy của Phật trùng tuyên thất giác chi là điều được công nhận ở cả hai truyền thống kinh điển, và điều này giống với những trường hợp Đức Phật thuyết bảy giác chi cho tôn giả Mahā Kassapa (S.v,79)[xxviii] và cả tôn giả Mahā Moggalāna (S.v,80)[xxix] được ghi nhận trong kinh Tương Ưng.

Do vậy, câu chuyện tôn giả Quân-đầu bị bệnh, nghe Phật dạy tụng thất giác chi và sau đó khỏi bệnh trong kinh Tăng-nhất-A-hàm, là câu chuyện có nội dung và kết cấu hợp lý.

6.     Nhận định

Trong kinh tạng Nikāya, bản kinh có tựa đề là Bệnh (S.v,81) đã lấy việc trì tụng thất giác chi làm liệu pháp trị bệnh. Kinh Tăng-nhất-A-hàm tương đương trong Hán tạng cũng phản ánh vấn đề bệnh tật và đề xuất cách chữa trị bằng cách nghe thất giác chi.

Điểm khác biệt quan trọng giữa hai bản kinh chính là, kinh tạng Nikāya cho rằng Đức Phật bị bệnh, nghe thất giác chi và sau đó khỏi bệnh. Tư liệu Hán tạng cho rằng, Sa-di Quân-đầu bị bệnh, nghe thất giác chi và sau đó thoát khỏi bệnh tình. Vậy, trong hai nguồn kinh điển nêu trên, thì trường hợp nào phù hợp với chân lý?

Theo cách thức tổ chức của kinh tạng Nikāya, thì kinh Tương Ưng là sự tập hợp những bài kinh có cùng một chủ đề (Saṃyutta). Kinh Bệnh (S.v,81) là một kinh ngắn, nằm trong chủ đề thất giác chi, gọi là Tương Ưng giác chi (Bojjhaṅgasaṃyuttaṃ). Phải chăng, với khoảng thời gian hơn bốn trăm năm giữ gìn kinh điển bằng cách thức ghi nhớ trước khi được ghi lại thành văn bản[xxx], đã có một sự nhầm lẫn trong quá trình gìn giữ, ghi chép, tập thành kinh văn liên quan đến bài kinh Bệnh (S.v,81)? Phải chăng, do quan điểm muốn nhấn mạnh đến vai trò của thất giác chi trong vấn đề chữa bệnh, cầu an nên đã thay đổi cấu trúc bản kinh? Nghi vấn này càng được tỏ rõ đối với xu hướng biện giải Phật học, xem bản kinh này như một Hộ kinh (Parittaṃ).

Có thể nói, từ những đối khảo về nội dung hai bản kinh, từ những phân tích về nhân thân của tôn giả Mahā Cunda, về tâm thế của Đức Phật khi lâm bệnh, và đặc biệt là ý kinh Tăng Chi: Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở cho Ta về mạng sống[xxxi]; đã cung cấp nhiều bằng chứng xác thực để có thể khẳng định rằng: bản kinh Tăng-nhất-A-hàm nêu trên chứa đựng những nội dung hợp lý, so với bài kinh Bệnh (S.v,81) trong kinh tạng Nikāya.



[i] Thích Minh Châu, So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pāli, Luận án tiến sĩ Phật học, Đại học Bihar, Ấn Độ, 1961, Thích Nữ Trí Hải dịch, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998. Xem thêm, Thích Chúc Phú, Kinh tứ thập nhị chương-đối chiếu và nhận định, NXB. Hồng Đức, 2014.

[ii] Lời giới thiệu luận án tiến sĩ của HT. Thích Minh Châu của viện trưởng S. Mookerjee, Tân tòng lâm Nalanda, Ấn Độ. Xem, Thích Minh Châu, So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pāli, Ibid, tr. 8.

[iii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 504-505.

[iv] 大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第三十三, 等法品, 六

[v] Dòng ghi chú đó là: Kinh Hán Tạng: Tăng, Đại 2,73la. Xem, Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 505n.

[vi] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 504-505

[vii] Kinh Tăng-nhất-A-hàm, bản dịch của HT. Thích Đức Thắng.

[viii] Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 1. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p. 880.

[ix] Jataka, số 456.

[x] Kinh Tiểu Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 471.

[xi] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 324

[xii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 574-577.

[xiii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 577

[xiv] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 571

[xv] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.301

[xvi] Malalasekera, G.P. Buddhist Dictionary of Pāli Proper Names. Vol 1. London: Luzac & Company Ltd., 1960, p.878.

[xvii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 625.

[xviii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 69.

[xix] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 70

[xx] Tích truyện Pháp, tập 2, Viên Chiếu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.51-52

[xxi] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 743

[xxii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 747

[xxiii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 749

[xxiv] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 723.

[xxv] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 750.

[xxvi] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 719.

[xxvii]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第三十三, 等法品, 六

[xxviii] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 503-504.

[xxix] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 504.

[xxx] Lamotte, Étienne.,  History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p. 558

[xxxi] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 719.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28244)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29383)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33285)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21766)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30650)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31260)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32306)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27125)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20616)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22248)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23988)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22865)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23204)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30412)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30090)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23129)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22321)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21785)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28225)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19262)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20152)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30903)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41511)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32721)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19120)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24967)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23682)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25317)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27767)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25002)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23823)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58688)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23207)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20888)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28166)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28925)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24596)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21429)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23847)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28609)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29404)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17648)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31021)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25333)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18956)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20138)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23946)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20158)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24822)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19400)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22568)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61818)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31134)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22113)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 19700)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant