Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

136. Ðại kinh Nghiệp phân biệt (Mahàkammavibhanga)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 26314)
136. Ðại kinh Nghiệp phân biệt (Mahàkammavibhanga)

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

136. Ðại kinh Nghiệp phân biệt
(Mahàkammavibhanga)


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc. 

Lúc bấy giờ Tôn giả Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng. Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta tiêu dao tản bộ, tuần tự du hành, đi đến Tôn giả Samiddhi; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Samiddhi những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Potaliputta thưa với Tôn giả Samiddhi: 

-- Này Hiền giả Samiddhi, trước mặt Thế Tôn, tôi tự thân nghe, tự thân ghi nhận như sau: "Hư vọng là thân nghiệp, hư vọngkhẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệpchân thật. Và có một Thiền chứng (samapatti), do thành tựu Thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì".

-- Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Chớ có phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy: "Hư vọng là thân nghiệp, hư vọngkhẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật". Và Hiền giả, có một Thiền Chứng, do thành tựu thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì.

-- Ngài xuất gia đã bao lâu, thưa Hiền giả Samiddhi? 

-- Không lâu, thưa Hiền giả. Có ba năm.

-- Nay ở đây chúng tôi còn hỏi các Tỷ-kheo trưởng lão làm gì khi một tân Tỷ-kheo nghĩ rằng cần phải bảo vệ vị Ðạo sư như vậy. Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm giác gì?

-- Này Hiền giả Potaliputta, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy cảm giác khổ đau.

Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta, không tán thán cũng không phản đối lời nói của Tôn giả Samiddhi. Không tán thán, không phản đối, du sĩ ngoại đạo Potaliputta từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.

Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi du sĩ ngoại đạo Potaliputta ra đi không bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi kể lại cho Tôn giả Ananda tất cả cuộc đàm thoại với du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Sau khi nghe nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Samiddhi: 

-- Này Hiền giả Samiddhi, đây là đề tài một câu chuyện cần phải yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Samiddhi, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến hãy trình bày lên Thế Tôný nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như vậy thọ trì.

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Samiddhi vâng đáp Tôn giả Ananda. Rồi Tôn giả Ananda và Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda, trình lên Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa Tôn giả Samiddhi với du sĩ ngoại đạo Potaliputta.

Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda: 

-- Này Ananda, Ta chưa từng thấy du sĩ ngoại đạo Potaliputta, thời câu chuyện này từ đây xảy ra? Này Ananda, câu hỏi đáng lý phải trả lời phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta, lại được kẻ ngu si Samiddhi này trả lời theo một chiều.

Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udayi bạch Thế Tôn

-- Bạch Thế Tôn, nếu đây là ý nghĩa của Tôn giả Samiddhi nói lên, thời cảm giác gì người ấy cảm thọcảm giác khổ đau.

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda: 

-- Này Ananda, hãy xem con đường sai lạc của kẻ ngu si Udayi này. Này Ananda, Ta biết rằng, nếu nay kẻ ngu si Udayi này mở miệng ra (đề cập vấn đề gì), ông ấy sẽ mở miệng đề cập một cách không như lý (ayoniso). Này Ananda, thật sự chỗ khởi thủy của du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi là về ba cảm thọ. Này Ananda, nếu kẻ ngu si Samiddhi này được du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác lạc thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất khổ bất lạc thọ"; nếu trả lời như vậy, này Ananda, kẻ ngu si Samiddhi đã trả lời một cách chơn chánh cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Và lại nữa, này Ananda, những kẻ du sĩ ngoại đạo ngu si, kém học, họ sẽ hiểu được đại phân biệt về nghiệp của Như Lai, này Ananda, nếu Ông nghe Như Lai phân tích đại phân biệt về nghiệp".

-- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời; bạch Thiện Thệ nay đã đến thời, Thế Tôn hãy phân tích đại phân biệt về nghiệp! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

-- Vậy này Ananda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói: 

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 

-- Này Ananda, có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Ananda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Nhưng ở đây, này Ananda, có người sát sanh,... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

Ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

Nhưng ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh,... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Ở đây, này Ananda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: "Thật sự có những ác nghiệp, có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho... nói hai lưỡi... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí. Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng".

Ở đây, này Ananda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,... vị ấy thấy có người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: "Thật sự không có những ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; "sau khi thân hoại mạng chung, họ đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến". Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng".

Ở đây, này Ananda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,... vị ấy thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: "Thật sự có những thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí". Như vậy, điều này vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng".

Ở đây, này Ananda, có Sa-môn... vị ấy thấy có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: "Thật sự không có những thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh. Và Ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến". Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng".

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác nghiệp". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho... ; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục", như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh". Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từụ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến", như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh ". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục"; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến"; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trướctuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.

Ở đây, này Ananda, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhậnchấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

Ở đây, này Ananda, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhậnchấp chặt. Do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhậnchấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời khác.

Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cói dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhậnchấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

Như vậy, này Ananda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu, có nghiệp vô hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ vô hữu.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

 

Majjhima Nikaya 136
Mahakammavibhanga Sutta
The Great Exposition of Kamma
Translated from the Pali by Ñanamoli Thera


Introduction (by Bhikkhu Khantipalo)
This celebrated sutta shows some of the complexities of kamma and its results. Beginning with a strange view expressed by a confused wanderer and a confused answer given by a bhikkhu, the Buddha then gives his Great Exposition of Kamma which is based upon four "types" of people: 
  • the evil-doer who goes to hell (or some other low state of birth),
  • the evil-doer who goes to heaven,
  • the good man who goes to heaven, and
  • the good man who goes to hell (or other low birth). 
The Buddha then shows how wrong views can arise from only partial understanding of truth. One can see the stages of this: (1) a mystic "sees" in vision an evil-doer suffering in hell, (2) this confirms what he had heard about moral causality, (3) so he says, "evil-doers always go to hell," and (4) dogma hardens and becomes rigid when he says (with the dogmatists of all ages and places), "Only this is true; anything else is wrong." The stages of this process are repeated for each of the four "persons," after which the Buddha proceeds to analyze these views grounded in partial experience and points out which portions are true (because verifiable by trial and experience) and which are dogmatic superstructure which is unjustified. Finally, the Buddha explains his Great Exposition of Kamma in which he shows that notions of invariability like "the evildoer goes to hell" are much too simple. The minds of people are complex and they make many different kinds of kamma even in one lifetime, some of which may influence the last moment when kamma is made before death, which in turn is the basis for the next life. 

1. Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was living at Rajagaha, in the Bamboo Grove, the Squirrels' Feeding Place. Now on that occasion the venerable Samiddhi was living in a forest hut. 

Then the wanderer Potaliputta, walking and wandering for exercise, came to the venerable Samiddhi and exchanged greetings with him, and when the courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side. When he had done so, he said to the venerable Samiddhi: 

2. "I heard and learned this, friend Samiddhi, from the monk Gotama's lips: 'Bodily kammas are vain, verbal kammas are vain, only mental kammas are true.' But there is actually that attainment having entered upon which nothing (of result of kammas) is felt at all." 

"Not so, friend Potaliputta, do not say thus, do not misrepresent the Blessed One; it is not good to misrepresent the Blessed One; the Blessed One would not say so: 'Bodily kammas are vain, verbal kammas are vain, only mental kammas are true.' And there is actually that attainment having entered upon which nothing (of result of kammas) is felt at all." 

"How long is it since you went forth, friend Samiddhi?" 

"Not long, friend, three years." 

"There now, what shall we say to the elder bhikkhus, when the young bhikkhu fancies the Master is to be defended thus? After doing intentional kamma, friend Samiddhi, by way of body, speech or mind, what does one feel (of its result)?" 

"After doing an intentional kamma, friend Potaliputta, by way of body, speech or mind, one feels suffering (as its result)." 

Then neither agreeing nor disagreeing with the words of the venerable Samiddhi, the wanderer Potaliputta got up from his seat and went away. 

3. Soon after the wanderer Potaliputta had gone, the venerable Samiddhi went to the venerable Ananda and exchanged greetings with him, and when the courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side. When he had done so, he told the venerable Ananda all his conversation with the wanderer Potaliputta. 

When this was said, the venerable Ananda told him: "Friend Samiddhi, this conversation should be told to the Blessed One. Come, let us go to the Blessed One, and having done so, let us tell him about this. As he answers, so we shall bear it in mind." 

"Even so, friend," the venerable Samiddhi replied. 

Then they went together to the Blessed One, and after paying homage to him, they sat down at one side. When they had done so, the venerable Ananda told the Blessed One all the venerable Samiddhi's conversation with the wanderer Potaliputta. 

4. When this was said, the Blessed One told the venerable Ananda: 

"I do not even know the wanderer by sight, Ananda. How could there have been such a conversation? The wanderer Potaliputta's question ought to have been answered after analyzing it, but this misguided man Samiddhi answered it without qualification.[1] 

When this was said, the venerable Udayin said to the Blessed One: "'But, venerable sir, supposing when the venerable Samiddhi spoke, he was referring to this, namely, 'Whatever is felt is suffering.'"[2] 

5. Then the Blessed One addressed the venerable Ananda: "See, Ananda, how this misguided man Udayin interferes. I knew, Ananda, that this misguided man Udayin would unreasonably interfere now. To begin with it was the three kinds of feeling that were asked about by the wanderer Potaliputta. If, when this misguided man Samiddhi was asked, he had answered the wanderer Potaliputta thus: 'After doing an intentional kamma by way of body, speech and mind (whose result is) to be felt as pleasure, he feels pleasure; after doing an intentional kamma by way of body, speech and mind (whose result is) to be felt as pain, he feels pain; after doing an intentional kamma by way of body, speech and mind (whose result is) to be felt as neither-pain-nor-pleasure, he feels neither-pain-nor-pleasure' -- by answering him thus, Ananda, the misguided man Samiddhi would have given the wanderer Potaliputta the right answer. Besides, Ananda, who are the foolish thoughtless wanderers of other sects that they will understand the Tathagata's Great Exposition of Kamma? (But) if you, Ananda, would listen to the Tathagata expounding the Great Exposition of Kamma (you might understand it).[3] 

"This is the time, Blessed One, this is the time, Sublime One, for the Blessed One to expound the Great Exposition of Kamma. Having heard it from the Blessed One, the bhikkhus will bear it in mind." 

"Then listen, Ananda, and heed well what I shall say." 

"Even so, venerable sir," the venerable Ananda replied. The Blessed One said this: 

6. "Ananda, there are four kinds of persons existing in the world. What four? 

(i) "Here some person kills living beings, takes what is not given, misconducts himself in sexual desires, speaks falsehood, speaks maliciously, speaks harshly, gossips, is covetous, is ill-willed, and has wrong view.[4] On the dissolution of the body, after death, he reappears in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. 

(ii) "But here some person kills living beings...and has wrong view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, in the heavenly world. 

(iii) "Here some person abstains from killing living beings, from taking what is not given, from misconduct in sexual desires, from false speech, from malicious speech, from harsh speech, from gossip, he is not covetous, is not ill-willed, and has right view.[5] On the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, in the heavenly world. 

(iv) "But here some person abstains from killing living beings...and has right view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. 

7. (i) "Here, Ananda, in consequence of ardor, endeavor, devotion, diligence, and right attention, some monk or brahmin attains such concentration of mind that, when his mind is concentrated, he sees with the heavenly eyesight, which is purified and surpasses the human, that some person kills living beings here, takes what is not given, misconducts himself in sexual desires, speaks falsehood, speaks maliciously, speaks harshly, gossips, is covetous, is ill-willed, has wrong view. He sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. He says: 'It seems that there are evil kammas and that there is the result of misconduct; for I have seen that a person killed living beings here...had wrong view. I have seen that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell.' He says: 'It seems that one who kills living beings...has wrong view, will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge.' So he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; insisting on that alone, he says: 'Only this is true, anything else is wrong.' 

8. (ii) "But here in consequence of ardor, endeavor, devotion, diligence and right attention, some monk or brahmin attains such concentration of mind that, when his mind is concentrated, he sees with the heavenly eyesight, which is purified and surpasses the human, that some person kills living beings here...has wrong view. He sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, in the heavenly world. He says: 'It seems there are no evil kammas, there is no result of misconduct. For I have seen that a person killed living beings here...had wrong view. I have seen that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, in the heavenly world.' He says: 'It seems there are no evil kammas, there is no result of misconduct. For I have seen that a person killed living beings here...had wrong view. I have seen that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in a happy destination, in the heavenly world.' He says: "It seems that one who kills living beings...has wrong view will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in a happy destination, in the heavenly world. Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge.' So he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; insisting on that alone, he says: 'Only this is true, anything else is wrong.' 

9. (iii) "Here in consequence of ardor, endeavor, devotion, diligence and right attention, some monk or brahmin attains such concentration of mind that, when his mind is concentrated, he sees with the heavenly eyesight, which is purified and surpasses the human, that some person abstains from killing living beings here...has right view. He sees that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, in the heavenly world. He says: 'It seems that there are good kammas, there is result of good conduct. For I have seen that a person abstained from killing living beings here...had right view. I saw that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in a happy destination, in the heavenly world.' He says: 'It seems that one who abstains from killing living beings...has right view will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in a happy destination, in the heavenly world. Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge.' So he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; insisting on that alone, he says: 'Only this is true; anything else is wrong.' 

10. (iv) "But here in consequence of ardor, endeavor, devotion, diligence and right attention, some monk or brahmin attains such concentration of mind that, when his mind is concentrated, he sees with the heavenly eyesight, which is purified and surpasses the human, that some person abstains from killing living beings here...has right view. He sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. He says: 'It seems that there are no good kammas, there is no result of good conduct. For I have seen that a person abstained from killing here...had right view. I saw that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell.' He says: 'It seems that one who abstains from killing living beings...has right view, will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge.' So he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; insisting on that alone, he says: 'Only this is true; anything else is wrong.' 

11. (i) "Now, Ananda, when a monk or brahmin says thus: 'It seems that there are evil kammas, there is the result of misconduct,' I concede that to him. 

"When he says thus: 'For I have seen that some person killed living beings...had wrong view. I saw that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell,' I concede that to him. 

"When he says thus: 'It seems that one who kills living beings...has wrong view, will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell,' I do not concede that to him. 

"When he says thus: 'Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge,' I do not concede that to him. 

"When he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; and insisting on that alone, he says: 'Only this is true; anything else is wrong,' I do not concede that to him. 

"Why is that? The Tathagata's knowledge of the Great Exposition of Kamma is different. 

12. (ii) "Now when a monk or brahmin says thus: 'It seems that there are no evil kammas, there is no result of misconduct,' I do not concede that to him. 

"When he says thus: 'For I have seen that a person killed living beings...had wrong view. I saw that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in a happy destination, in the heavenly world,' I concede that to him. 

"When he says thus: 'It seems that one who kills living beings...has wrong view, will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in a happy destination, in the heavenly world,' I do not concede that to him. 

"When he says thus: 'Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge,' I do not concede that to him. 

"When he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; and insisting on that alone, he says: 'Only this is true; anything else is wrong,' I do not concede that to him. 

"Why is that? The Tathagata's knowledge of the Great Exposition of Kamma is different. 

13. (iii) "Now when a monk or brahmin says thus: 'It seems that there are good kammas, there is a result of good conduct,' I concede that to him. 

"When he says thus: 'For I have seen that a person abstained from killing living beings here...had right view. I saw that on the dissolution of the body after death, he had reappeared in a happy destination, in the heavenly world,' I concede that to him. 

"When he says: 'It seems that one who abstains from killing living beings...has right view will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in a happy destination, in the heavenly world,'[6] I do not concede that to him. 

"When he says: 'Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge,' I do not concede that to him. 

"When he obstinately misapprehends what he himself has known, seen, and felt; and insisting on that alone he says: 'Only this is true: anything else is wrong,' I do not concede that to him. 

"Why is that? The Tathagata's knowledge of the Great Exposition of Kamma is different. 

14. (iv) "Now when a monk or brahmin says thus: 'It seems that there are no good kammas, there is no result of good conduct,' I do not concede that to him. 

"When he says thus: "For I have seen that a person abstained from killing living beings here...had right view. I saw that on the dissolution of the body, after death, he had reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell," I concede that to him. 

"When he says thus: 'One who abstains from killing living beings...has right view will always, on the dissolution of the body, after death, reappear in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell,' I do not concede that to him. 

"When he says thus: 'Those who know thus know rightly; those who know otherwise are mistaken in their knowledge,' I do not concede that to him. 

"When he obstinately misapprehends what he himself has known, seen and felt; and insisting on that alone, he says: 'Only this is true; anything else is wrong,' I do not concede that to him. 

"Why is that? The Tathagata's knowledge of the Great Exposition of Kamma is different. 

(The Great Exposition of Kamma)

15. (i) "Now, Ananda, there is the person who has killed living beings here...has had wrong view. And on the dissolution of the body, after death, he reappears in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell.[7] But (perhaps) the evil kamma producing his suffering was done by him earlier, or the evil kamma producing his suffering was done by him later, or wrong view was undertaken and completed by him at the time of his death.[8] And that was why, on the dissolution of the body, after death, he reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. But since he has killed living beings here...has had wrong view, he will feel the result of that here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence. 

16. (ii) "Now there is the person who has killed living beings here...has had wrong view. And on the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, in the heavenly world.[9] But (perhaps) the good kamma producing his happiness was done by him earlier, or the good kamma producing his happiness was done by him later, or right view was undertaken and completed by him at the time of his death. And that was why, on the dissolution of the body, after death, he reappeared in a happy destination, in the heavenly world. But since he has killed living beings here...has had wrong view, he will feel the result of that here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.[10] 

17. (iii) "Now there is the person who has abstained from killing living beings here...has had right view. And on the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, in the heavenly world.[11] But (perhaps) the good kamma producing his happiness was done by him earlier, or the good kamma producing his happiness was done by him later, or right view was undertaken and completed by him at the time of his death. And that was why, on the dissolution of the body, after death, he reappeared in a happy destination, in the heavenly world. But since he has abstained from killing living beings here...has had right view, he will feel the result of that here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence. 

18. (iv) "Now there is the person who has abstained from killing living beings here...has had right view. And on the dissolution of the body, after death, he reappears in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell.[12] But (perhaps) the evil kamma producing his suffering was done by him earlier, or the evil kamma producing his suffering was done by him later, or wrong view was undertaken and completed by him at the time of his death. And that was why, on the dissolution of the body, after death, he reappeared in the states of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, in hell. But since he has abstained from killing living beings here...has had right view, he will feel the result of that here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.[13] 

19. "So, Ananda, there is kamma that is incapable (of good result) and appears incapable (of good result); there is kamma that is incapable (of good result) and appears capable (of good result); there is kamma that is capable (of good result) and appears capable (of good result); there is kamma that is capable (of good result) and appears incapable (of good result)."[14] 

This is what the Blessed One said. The venerable Ananda was satisfied and he rejoiced in the Blessed One's words. 


Notes

1. These are two of the four ways of answering a question, the other two being: replying with a counter-question, and "setting aside" the question, i.e. replying with silence.

2. This is a quotation from the Buddha's words: see Samyutta Nikaya, Vedana Samyutta, Rahogata-vagga Sutta 1.

3. This is an addition necessary for understanding this sentence.

4. These are the ten unwholesome courses of kamma.

5. These are the ten wholesome courses of kamma.

6. This amounts to the belief in theistic religions where virtue and faith (=whatever is held to be right view) are supposed to guarantee salvation.

7. Devadatta, for instance, who persuaded prince Ajatasattu to murder his father (who was a stream-winner), three times attempted to murder the Buddha and once succeeded in wounding him, and caused a schism in the Sangha; the last two actions are certain to lead to birth in hell.

8. This series of three phrases appears to mean: earlier, either earlier in life before he undertook either the wholesome or unwholesome courses of kamma, or in some previous life; later, later in that very life, for even if a person does much evil kamma, usually he will also make some good kamma occasionally; wrong view...time of his death, this kind of wrong view will be of the type, "there is no kamma, no results of kamma, no evil, no results of evil," and so on. The next birth actually depends on the object of the last moments of a dying person's consciousness. At that time one should recollect all one's good kamma: generosity, loving-kindness, compassion, pure precepts and so on. Evil should not be thought of then though heavy evil kamma done previously may force itself into the mind and make recollection of one's generosity and virtue in keeping the precepts difficult or impossible.

9. A good example of this is the story of "Coppertooth," the public executioner who, after a career of murder as a bandit, then as the killer of his own bandit comrades and subsequently executioner of all criminals for fifty years, was taught by venerable Sariputta Thera and his mind eased of the heavy weight of evil kamma so that he attained heavenly rebirth. See Dhammapada Commentary, ii, 203-209.

10. Though such a person attained a heavenly rebirth the evil kamma made will still mature sooner or later; he has not escaped its results.

11. King Pasenadi of Kosala, for instance.

12. This was what happened to Queen Mallika, wife of King Pasenadi, who had led a good life, generous, keeping the Five Precepts, and the Eight Precepts on Uposatha days and so on, but once she did evil, having sexual relations with a dog. This unconfessed evil weighed heavily on her mind and she remembered it when dying. As a result she spent seven days in hell. Her power of goodness from the doing of many good kammas then gave her rebirth in a heavenly world. See Dhammapada Commentary, iii, 119-123.

13. Though this virtuous and good person has obtained a low rebirth through the power of previously done evil kamma, still the good kamma made by him will mature sooner or later, when it gets a chance.

14. This final terse paragraph may have been clear to the venerable Ananda Thera, or he may have asked for an explanation, as we require and find in the Commentary, which says: 

i.A strong unwholesome kamma (incapable of good result), the result of which will come before the results of weaker unwholesome kammas. 

ii. Wholesome kamma (which appears capable of good result) is followed by unwholesome death-proximate kamma which makes the former incapable of good result immediately. 

iii.A strong wholesome kamma will mature even before much accumulated unwholesome kamma. 

iv.Unwholesome kamma (which appears incapable of good result) is followed by wholesome death-proximate kamma which will mature first and is capable of good results. 

Source: http://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn136.html
(Revised: 9 November 1998)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26612)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28212)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29335)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33214)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21726)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30581)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31201)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37093)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32235)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27073)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20583)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22210)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23942)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22823)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23168)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30373)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30034)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22301)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21754)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28170)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19231)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20126)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30857)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41484)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32668)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19106)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33970)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24938)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23646)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25274)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27725)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24955)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23797)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58617)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23173)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20846)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28105)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28865)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19183)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24549)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21395)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23797)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28585)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29361)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17621)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 30976)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25284)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18928)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20092)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23913)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19020)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20110)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20008)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24802)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19381)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22536)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61766)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31099)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22083)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant