Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh Tấn Siêu Việt - Thực Hành Của Một Bồ Tát

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 23305)
Tinh Tấn Siêu Việt - Thực Hành Của Một Bồ Tát

TINH TẤN SIÊU VIỆTTHỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT
Dilgo Khyentse Rinpoche

blankChỉ để làm lợi ích cho riêng mình, ngay cả các Thanh Văn và Phật Độc Giác
Cũng phải nỗ lực như người cứu đầu mình đang bốc cháy:
Nhìn thấy điều này, để làm lợi lạc tất cả chúng sinh,
Thực hành hạnh tinh tấn, cội nguồn của những phẩm hạnh tuyệt vời, là thực hành của một Bồ Tát.

Để đánh thức và phát triển tất cả các phẩm hạnh siêu việt (ba la mật), tinh tấn là một hạnh trọng yếu. Tinh tấn là sự nỗ lực đầy hoan hỉquyết tâm tích cực để thực hiện những hành động tốt đẹp mà không có chút mong cầu hay tự mãn nào.

Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ mà bạn mặc nó như áo giáp chống lại sự ngã lòng. Thứ hai là “tinh tấn trong hành động,” là loại tinh tấn để bắt đầu tích tập công đức qua thực hành sáu ba la mật mà không chậm trễ hay trì hoãn. Thứ ba là “tinh tấn không thể ngừng dứt,” một năng lực vô bờ và liên tục để làm việc cho chúng sinh. Sự tinh tấn nên làm thấm đẫm việc thực hành các ba la mật khác và gia thêm sinh lực cho tất cả những ba la mật đó.

Loại tinh tấn thứ nhất, tinh tấn như áo giáp, là mặc áo giáp của sự quyết tâm mạnh mẽ và can trường khiến bạn chẳng bao giờ là nạn nhân của những chướng ngại do bốn quỷ ma tạo ra (những cảm xúc tiêu cực, tham luyến tiện nghi, bệnh tật vật lý, và cái chết), mà dù có thế nào chăng nữa, bạn cũng sẽ kiên trì trong những nỗ lực của bạn để hoàn thành các hoạt động phi thường của một Bồ Tát cho tới khi bạn an lập tất cả chúng sinh trong sự giác ngộ.

Loại thứ hai, tinh tấn trong hành động, là sự kiên trì quả quyết trong việc thực sự áp dụng ước nguyện đó. Khi cảm nhận một niềm hoan hỉ lớn lao về việc bạn có thể thực hành, đi trên năm con đườngđạt được mười cấp bậc,1 bạn thực hiện một cách nhiệt tâm vô vàn hoạt động đáng ca ngợi, đặc biệt là việc nghiên cứu, quán chiếuthiền định. Khi dấn mình vào tất cả những hoạt động này, hãy duy trì một dũng khí bất khuất và không bao giờ chịu làm nạn nhân của sự ngã lòng, lười biếng hay trì hoãn.

Loại thứ ba, tinh tấn không thể ngừng dứt, là năng lực không gì có thể thỏa mãn để làm việc liên tục cho chúng sinh. Ngày và đêm, hãy dấn mình vào mọi phương cách có thể, một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong những tư tưởng, lời nói, và hành động của bạn để làm lợi lạc chúng sinh. Nếu bạn không thể trực tiếp giúp đỡ họ, bạn không nên lưu giữ điều gì trong tâm ngoài việc làm lợi lạc cho người khác, và hồi hướng mọi sự bạn làm cho việc thành tựu Phật quả của họ. Đừng bao giờ cảm thấy tự mãn bởi một vài phẩm hạnh tốt lành mà bạn có thể đạt được, và đừng bao giờ để sự sỉ nhục của người nào đó hay những nghịch cảnh làm bạn trệch khỏi những mục đích của bạn. Hãy luôn luôn kiên quyết tiếp tục cho tới khi bạn đạt được mục đích.

Đối nghịch với mỗi loại tinh tấn này là một loại lười biếng tương ứng.

Loại lười biếng thứ nhất là không ước muốn gì ngoài sự tiện nghi của riêng bạn. Điều đó biểu lộ như một khuynh hướng mê ngủ và lười nhác, khao khát sự thỏa mãntiện nghi tức thì cũng như trong việc không để ý tới Giáo Pháp. Cách đối trị cho loại lười biếng này là thiền định về cái chết và sự vô thường.

Loại lười biếng thứ hai là tánh nhút nhát. Thậm chí bạn cảm thấy ngã lòng trước khi bạn bắt đầu cố gắng làm điều gì đó, bởi bạn nghĩ rằng một người như bạn sẽ chẳng bao giờ đạt được giác ngộ cho dù bạn hết sức cố gắng tới đâu chăng nữa. Cách đối trịcủng cố sự kiên cường của bạn bằng cách quán chiếu về những lợi lạc của sự giải thoátgiác ngộ.

Loại lười biếng thứ ba là việc không biết tới những ưu thế chân thực của bạn. Bạn trở nên vướng kẹt trong những tập quán tiêu cựcvô ích. Quên lãng hay phớt lờ những mục đích sâu xa, bạn hoàn toàn bận tâm về những vấn đề hạn hẹp của cuộc đời này. Cách đối trị là hãy nhận ra rằng tất cả những mối bận tâm tầm thường như thế sẽ chỉ luôn luôn là nguyên nhân của sự đau khổ, và hãy ném chúng đi thật xa.

Người ta làm việc với nỗ lực to lớn cả ngày lẫn đêm để hoàn thành những điều chỉ nhắm đến sự tiện nghi, danh tiếng, và quyền lực của riêng họ - nói cách khác, đó là những điều mà về lâu về dài thì hoàn toàn vô nghĩa. Tuy nhiên, trong những gian khó mà bạn có thể phải trải quaGiáo Pháp, sẽ chẳng gian khó nào mà không có ý nghĩa. Những hoàn cảnh khó khăn bạn trải nghiệm sẽ giúp bạn tịnh hóa những tiêu cực được tích tập trong nhiều đời quá khứ và thâu thập công đức như một sự dự phòng cho những đời sau. Những đời sau ấy bảo đảm là sẽ tràn đầy ý nghĩa.

Không có tinh tấn, Bồ đề tâm và các hoạt động của một Bồ Tát sẽ không có phương tiện để bắt rễ và phát triển trong tâm bạn. Như Padampa Sangye đã nói:

Nếu lòng kiên trì của quý vị không có sức mạnh, quý vị sẽ không đạt được Phật quả;
Dân chúng Tingri, hãy bảo đảm là quý vị khoác lên người áo giáp (tinh tấn).

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nổi danh về việc đưa tinh tấn siêu việt tới sự toàn thiện tối thượng của nó. Năng lựccông đức được phát triển bởi nỗ lực của ngài trải qua vô lượng cuộc đời đã có thể khiến cho ngài tái sanh làm một Đại Đế một ngàn lần, nhưng thay vào đó ngài đã quyết định hướng toàn bộ nỗ lực của ngài vào việc thành tựu Giác ngộ. Là những môn đồ của Đức Phật, chúng ta nên sử dụng câu chuyện cuộc đời ngài và những tiểu sử của các vị thánh vĩ đại trong quá khứ như những gương mẫu đầy cảm hứng. Chẳng hạn như Đức Jetsun Milarepa đã phô diễn nỗ lực không thể tin nổi, trải qua nhiều gian khổ để đạt được những mục đích sâu xa của ngài. Vairochana2 đã tới Ấn Độ để cầu Pháp khi còn rất trẻ, trải qua năm mươi bảy khó khăn không thể chịu đựng nổi để có được các giáo lý và nhiều lần ngài suýt mất mạng. Ngài và các dịch giả vĩ đại khác của Tây Tạng đã gặp những gian khổ ghê gớm trên bước đường du hành – sức nóng thiêu đốt và những cơn sốt, kế đó là chứng bệnh địa phương trong những đồng bằng Ấn Độ, sự hận thù khắc nghiệt của những nhà cai trị địa phương v.v.. Tuy nhiên các ngài đã kiên trìthành công trong việc đưa Giáo Pháp đích thực trở về Tây Tạng.

Ngày nay bạn đang sống trong những quốc gia ở đó Giáo Pháp chỉ mới bắt đầu bén rễ, giống như một chồi non yếu ớt trên mặt đất. Chỉ có sự tinh tấn kiên trì liên tục của bạn mới làm cho nó có được trái quả. Tùy thuộc vào nỗ lực mà bạn đặt vào việc nghiên cứu, quán chiếuthiền định, và việc kết hợp những gì bạn hiểu vào thực hành tâm linh, sự thành tựu có thể xảy đến trong nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm. Điều thiết yếu là hãy nhớ tưởng rằng mọi cố gắng của bạn trên con đường là vì chúng sinh. Hãy khiêm tốn và nhận thức rằng những nỗ lực của bạn chỉ như trò chơi của đứa trẻ nếu so sánh với hoạt động như đại dương của các đại Bồ Tát. Hãy giống như một bậc cha mẹ cung cấp cho những đứa con hết sức yêu quý, đừng bao giờ nghĩ rằng bạn đã làm quá nhiều cho người khác – hay ngay cả bạn đã làm đầy đủ. Nếu cuối cùng bạn đã ráng sức, chỉ bằng những nỗ lực của chính bạn, để an lập tất cả chúng sinh trong Phật quả, bạn hãy nghĩ tưởng một cách giản dị rằng mọi ước nguyện của bạn đã được hoàn thành. Đừng bao giờ có mảy may hy vọng nào là bạn sẽ được đền đáp.

So với một vị Thanh Văn hay Phật Độc Giác thì một Bồ Tát phải có sự tinh tấn lớn lao hơn rất nhiều, bởi Bồ Tát đã nhận trách nhiệm hoàn thành hạnh phúc tối thượng của Phật quả không chỉ cho bản thân mình mà còn cho vô lượng chúng sinh. Như có câu nói:

Vị anh hùng mang gánh nặng của tất cả chúng sinh trên đầu không có thời gian rảnh rỗi để bước đi chậm rãi.

Và:

Bởi tôi và tất cả chúng sinh bị trói buộc bằng một trăm xiềng xích,
Tôi phải nhân sự tinh tấn của mình lên một trăm lần.

Để tăng trưởng sự tinh tấn của bạn, hãy quán chiếu về mọi sự thậtvô thường. Cái chết là điều không thể tránh khỏi, có thể xảy ra bất thình lìnhvô cùng nhanh chóng. Trong sự soi rọi đó hãy nghĩ rằng những mối bận tâm thế tục của cuộc đời này thì thực sự cạn cợt và thiển cận biết bao, và bạn có thể tự do ra sao nếu bạn có thể xoay chuyển tâm bạn khỏi những bận tâm đó. Nếu bạn thình lình nhận ra rằng một con rắn độc đang ẩn nấp trong lòng bạn, trong nếp gấp y phục của bạn, bạn có chờ đợi để làm một hành động, ngay cả trong một giây?

Chú thích:

1. Bồ Tát là những bậc đã chứng ngộ bản tánh trống không của các hiện tượng và sự không hiện hữu của tự ngã. Các ngài thoát khỏi các klesha, hay những cảm xúc thông thường (các phiền não). Có mười cấp bậc Bồ Tát, hay mười bhumi (thập địa). Bhumi thứ mười một là địa của Phật quả viên mãn, là quả vị được chứng ngộ khi cả hai che chướng – che chướng của các klesha (phiền não chướng) và che chướng ngăn che trí tuệ tuyệt đối (sở tri chướng) – đã hoàn toàn được quét sạch theo một cách thức không thể thay đổi được. Theo một ý nghĩa rộng lớn hơn, Bồ Tát được mô tả như một người dấn mình vào việc thực hành giáo lý Đại Thừa.

2. Lochen Vairochana (lo chen bai ro tsa na): vị lỗi lạc nhất trong các dịch giả (hay lotsawa) Tây Tạng vĩ đại, của thời kỳ Cựu Dịch (snga ‘sgyur) và là một trong tám đệ tử thân thiết nhất của Guru Padmasambhava.

Thanh Liên trích dịch từ nguyên tác:
“The Heart of Compassion – The Thirty-Seven Verses on The Practice of a Bodhisattva” by Dilgo Khyentse Rinpoche

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31300)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26205)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27492)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27872)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26687)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31183)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20241)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22875)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30011)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21535)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20207)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22621)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20723)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30260)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28752)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34686)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44185)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35475)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22515)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21335)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20653)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24739)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37859)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19006)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19300)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21781)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20851)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29492)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35067)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28786)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32572)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26195)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28895)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43101)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34899)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43875)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37845)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21312)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 42999)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48983)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39800)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53757)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36791)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40776)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49694)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47279)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27671)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 26999)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27203)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24059)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20824)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34292)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22439)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25083)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25800)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22921)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22454)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21730)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 21145)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29847)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant