Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

52. Cậu bé được sinh lên cõi trời

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10133)
52. Cậu bé được sinh lên cõi trời

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

CẬU BÉ ĐƯỢC SINH LÊN CÕI TRỜI

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có một người bà-la-môn làm ruộng. Người ấy cưới được một cô vợ cũng hợp ý với mình, không bao lâu sinh được một bé trai kháu khỉnh, đặt tên là Nguyệt Quang. Lớn dần lên, dung mạo đoan trang, ai thấy cũng đều yêu mến.

Một hôm, cậu bé Nguyệt Quang có dịp đi chơi với trưởng giả Tu-đạt, được ông dẫn đến tinh xá Kỳ Hoàn, nghe Phật thuyết pháp. Do có túc duyên từ nhiều kiếp, cậu ngộ được nghĩa lý của một bài kệ bốn câu. Đêm hôm ấy về nhà, mạng chung sinh lên cõi trời Đao-lỵ.

Bấy giờ, cha mẹ của cậu bé Nguyệt Quang vô cùng đau khổ, than khóc thảm thiết, đến nghĩa địa rồi ôm xác cậu mà kêu gào, chẳng chịu về nhà. Bằng hữu quyến thuộc khuyên can đều chẳng được.

Lòng bi lụy ấy cảm ứng đến tận cõi trời, khiến cho cung điện của vị thiên tử Nguyệt Quang khi ấy phải chấn động, không được an ổn. Người liền tự quán sát biết được nguyên nhân, thấy cha mẹ đời trước của mình hiện vẫn còn ôm xác mà kêu gào nơi nghĩa địa, chẳng chịu về nhà.

Thiên tử Nguyệt Quang khi ấy liền từ cõi trời hiện xuống, hóa hình thành một vị tiên nhân đi lại chỗ cha mẹ mình đang khóc lóc. Tiên nhân ấy vừa đi vừa lấy lửa mà tự đốt thân mình.

Người cha lấy làm lạ liền hỏi rằng: “Bạch đại đức, người lấy lửa nóng đốt thân mình khổ sở như vậy, có sở nguyện gì hay chăng?”

Tiên nhân đáp: “Ta cầu sẽ được làm vua một cõi, có xe đi làm bằng vàng ròng, trang hoàng bằng các món trân bảo, mặt trời mặt trăng phải theo hầu hai bên ta, lại sai bốn vị thiên vương kéo xe của ta đi du hành khắp bốn cõi thiên hạ. Người thấy như vậy chẳng thích lắm sao?”

Người bà-la-môn cha của Nguyệt Quang liền đáp rằng: “Tôi nghĩ dù ông có ngày đêm chịu khổ lửa nóng đốt thân như vậy cho đến cả trăm năm, thì sở nguyện của ông cũng chẳng thể nào thành tựu được.”

Khi ấy, tiên nhân liền hỏi lại: “Thế hai ông bà ở nơi nghĩa địa này mà ôm cái xác chết ấy, có sở nguyện gì chăng?”

Vợ chồng người bà-la-môn đáp: “Đây là đứa con duy nhấtchúng tôi yêu quý. Nay nó bỏ chúng tôi mà đi. Chúng tôi ôm xác này cầu mong nó sống lại.”

Tiên nhân liền nói: “Ta nghĩ dù hai ông bà có ôm tử thi ấy mà gào khóc suốt đêm ngày, kéo dài cho đến cả trăm năm, thì sở nguyện ấy cũng không thể nào thành tựu được.”

Khi ấy, người bà-la-môn nghe được lời nói của tiên nhân rồi, liền tự thấy hổ thẹn, biết được sự phi lý của mình, liền thôi không còn gào khóc nữa. Khi ấy, tiên nhân liền hiện lại nguyên hình thiên tử cõi trời, nói với cha mẹ rằng: “Ta chính là đứa con duy nhất của hai người đây. Nhờ duyên lành được nghe pháp Phật, nên mạng chung đã sinh lên cõi trời Đao-lỵ. Nay muốn cho cha mẹ đừng âu sầu khỏ não nữa nên mới từ cõi trời mà hiện xuống đây.”

Vợ chồng người bà-la-môn nghe biết như vậy rồi, vui mừng khôn xiết. Khi ấy, vị thiên tử hóa hiện đủ các thứ hương hoa, trân bảo, khuyên hai người nên cùng đi đến cúng dường Phật.

Đến nơi, lễ bái cúng dường Phật xong, liền cùng nhau ngồi lại mà nghe pháp. Phật vì mọi ngườithuyết pháp Tứ diệu đế, khiến tất cả đều đồng thời đắc quả Tu-đà-hoàn.

Bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy vậy liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Vị thiên tử này nhờ nhân duyên gì mà có thể khuyên can cha mẹ đời trước, lại được nghe pháp Phật mà đắc quả?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Không phải chỉ đến ngày nay người này mới khuyên giải giúp ích cho cha mẹ. Trong đời quá khứ cũng đã từng vì cha mẹ mà khuyên giải làm cho không còn sầu não.”

Chư tỳ-kheo lại thưa hỏi: “Chẳng biết nhân duyên quá khứ như thế nào, xin được Thế Tôn giảng giải cho nghe.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có một người ngu si thời làm chuyện trộm cắp, tà dâm, dối gạt người khác, bị quan binh truy nã bắt được, giải lên cho vua.

Vua xét hỏi tội trạng, người ấy thú thật đủ mọi điều, liền xử tội phải mang đi chém.

Bấy giờ, đứa con trai của người ấy tánh nết nhân từ, hiền thuận, nhu hòa, lại hiếu kính với cha mẹ, nhân dân cả nước đều biết. Người con ấy vì thương cha nên đến khẩn cầu nhà vua xin tội cho cha. Vua chẳng thuận cho. Lại khẩn khoản cầu xin đến lần thứ ba, vua không nỡ giết liền truyền tha tội.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Kẻ tội nhân suýt chết ngày ấy, nay chính là người bà-la-môn cha của Nguyệt Quang. Người con hiền đức, hiếu thuận ấy nay là vị thiên tử đây. Do nhân duyênmột lần vào thời Phật Ca-diếp ra đời đã thọ Tam quy y, nên đến nay được gặp ta, nghe phápđắc đạo.

Phật thuyết nhân duyên cậu bé Nguyệt Quang sinh lên cõi trời rồi, trong chúng hội có người đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13715)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25399)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13785)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15096)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17703)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17114)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14213)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14457)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19763)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16754)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18631)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19066)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18871)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21177)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14805)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39188)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14411)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19380)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14720)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16152)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14710)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14913)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39154)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24521)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19463)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21470)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19699)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13887)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13767)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14118)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21918)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16755)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14542)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14059)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14363)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15024)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24682)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23128)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28567)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15076)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14128)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14649)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18316)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26533)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15206)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14855)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15210)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15147)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant