Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

28. Y, Bát của Phật

07 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10034)
28. Y, Bát của Phật

VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
 Lê Sỹ Minh Tùng

PHẦN III

Y, Bát của Phật 

Dựa theo kinh Bổn Sanh thì sau khi ra khỏi cung thành Ca Tỳ La Vệ và vào tận rừng sâu thì thái tử Tất Đạt Đa đã đổi bộ y phục sang trọng may bằng lụa xứ Ba-la-nại cho một người thợ săn vốn là hóa thân của một phạm thiên để nhận một bộ y phục nhạt màu. Ngài nghĩ rằng chiếc áo cà sa đơn giản thì thích hợp hơn khi Ngài còn đang vân du khắp nơi để tìm cầu chân lý. Dựa theo Luật tạng Nhất Thiết Hữu Bộ thì vào thời quá khứ tại cung thành Ca Tỳ La Vệ có mười anh em cùng xuất gia, tu tậpchứng quả Bích Chi Phật. Trước khi nhập diệt, tất cả những vị Bích Chi Phật nầy đã trao lại những tấm y bá nạp của mình cho bà mẹ và cùng thưa rằng vào đời tương lai có Đức Thích Ca Mâu Ni là con vua Tịnh Phạn chứng được quả vô thượng Bồ-đề

 Nếu đem những y phục nầy dâng cho Ngài thì sẽ được phước báu vô lượng. Người mẹ theo ý nguyện trên nên giữ gìn cẩn thận những bộ y đó. Trước khi qua đời bà trao chúng lại cho người con gái của mình để giữ gìn. Đến khi cô con gái trở nên già yếu thì cô bèn đem những tấm y đó treo trên cây và cầu vị thần cây bảo hộ để sau nầy trao lại cho con vua Tịnh Phạn. Trời Đế Thích đem y về giữ gìn và đợi đến khi thái tử xuất gia thì hiện thành một người thợ săn đến đổi y phục cho thái tử. Khi về đến cõi trời, Đế Thích bèn xây tháp phụng thờ bộ y phục bằng lụa xứ Ba-La-Nại của thái tử và tháp nầy có tên là Xuất gia y tháp. 

 Chính tấm y nầy thái tử Tất Đạt Đa đã mặc trong suốt thời gian tu khổ hạnh. Kinh Phổ Diệu còn nói thêm rằng trải qua thời gian sáu năm khổ hạnh, tấm y của thái tử dần dần cũ và rách đi. Thái tử sau đó đã đến nghĩa địa nhặt những mảnh vải cũ vốn được dùng để bọc tử thi của một tỳ nữ. Cô gái nầy đã chết trong ngôi nhà gần nơi trú ngụ của vị trưởng làng. Thái tử giặt sạch những mảnh vải nầy và sau đó khâu thành một bộ y phục mới cho mình tại một gốc cây mà về sau được gọi là nơi khâu y phấn tảo. Bộ y phục nầy được xem là khởi đầu cho truyền thống mặc y phấn tảo hay y bá nạp tức là loại y được may từ những mảnh vải rách lượm từ đống rác hay nghĩa địa được giặt sạch. 

 Ngoài tấm y phấn tảo nầy, Đức Phật được một vị thần cây dâng lên một y Tăng già lê của Đức Phật Ca Diếp theo như lời phó chúc của Đức Ca Diếp. Sau ngày thành đạo Đức Phật Thích Ca đã thọ trìgiữ gìn tấm y nầy một cách cẩn thận suốt 49 năm và truyền lại cho tôn giả Đại Ca Diếp. Sau đó tôn giả Đại Ca Diếp đem tấm y nầy vào núi Kê Túc để nhập định lưu thân và về sau giao lại cho Đức Di Lặc. 

 Trong thời gian du hóa sau ngày thành đạo, Đức Phật đã được nhiều vị gia chủ cúng dường những tấm lụa quý hiếm, nhưng Ngài đều giao lại cho đệ tử mình tùy nghi xử dụng. Ngay cả dưỡng mẫu Ma-ha-Ba-xa-ba dùng tơ quý dệt thành một bộ y để đem dâng cúng Phật. Khi bị Đức Phật từ chối dưỡng mẫu tỏ vẻ không vui thì Đức Phật khuyên bà nên đem cúng bộ y ấy cho chư tăngcúng dường chư tăng cũng chính là cúng dường Phật vậy. 

 Trong số những đại đệ tử của Phật, chỉ có tôn giả Đại Ca Diếptu khổ hạnh đầu đà. Một ngày nọ Đức Phật đến thăm nhân lúc tôn giả đang ở dưới một gốc cây, tôn giả bèn gấp y Tăng già lê của mình và thỉnh Đức Phật ngồi lên tấm y đó. Khi nghe Đức Phật khen tấm y mềm mại, tôn giả thành tâm xin được cúng dường tấm y của mình cho Đức Phật và mong được thọ trì tấm y phấn tảoĐức Phật đang dùng. Đức Phật biết tôn giả đang cần y phấn tảo để thực hành khổ hạnh đầu đà nên Ngài chấp thuận. Tôn giả đã sử dụng tấm y phấn tảo nầy cho đến cuối đời mình.

 Ngoài tấm y ra thì bình bát của Đức Phật được xem là bảo vật truyền thừa của chư Phật. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, có hai vị thương gia tên là Đề Vị (Tapussa) và Ba Lợi (Bhallika) dâng cúng thức ăn cho Phật và đây là bửa ăn đầu tiên của Ngài ở Bồ-đề đạo tràng sau khi thành đạo. Khi được hai vị thương gia cúng dường thức ăn thì Đức Phật liền nghĩ rằng chư Phật trong ba đời đều dùng bình bát để thọ dụng vật thực, nay ta cũng nên theo truyền thống nầy. Lúc bấy giờ có bốn vị Thiên Vương biết được tâm niệm đó nên mỗi người mang một bình bát bằng đá đem dâng lên Đức Phật. Vì thương tưởng các vị Thiên Vương nên Đức Phật liền nhận cả bốn bình bát và Ngài liền dùng thần lực khiến cho bốn bình bát nầy trở thành một cái duy nhất. Bình bát nầy về sau trở thành vật tùy thân của Đức Phật trong suốt 49 năm du hóa của Ngài.

 Trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có nói đến một bình bát bằng đất do một vị thần núi dâng cho Đức Phật sau ngày thành đạo. Đức Phật đã cẩn thận sử dụng cái bình bát nầy trong cả cuộc đời của Ngài nữa. Một ngày nọ, Đức Phật được quốc vương xứ Ma Kiệt Đà thỉnh vào thành Vương Xá để thọ trai. Sau khi dùng cơm xong, La Hầu La mang bình bát nầy đến hồ Rồng để rửa nhưng chẳng may làm vỡ bình bát thành năm mảnh. Đức Phật không hề trách cứ La Hầu La mà đem bình bát vá lại và Ngài tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập diệt có những người xuất gia không tôn kínhthọ trì giáo pháp

 Phật dạy rằng:”Trong năm trăm năm đầu luật tạng bị chia thành năm bộ, giáo pháp bị chia thành mười tám bộ và đến lúc chánh pháp suy tàn thì tam tạng thánh điển bị chia thành năm trăm bộ”. Khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài truyền y bát lại cho tôn giả Đại Ca Diếp. Chính cái bình bát bằng đất nầy là vật di truyền cho tôn giả Đại Ca Diếp. Về sau tôn giả đem y, bát vào núi Kê Túc thuộc miền Bắc Ần Độ và chờ trao lại cho Đức Phật Di Lặc trong tương lai. Chính Ngài Tam Tạng Trần Huyền Trang thuật lại trong Đại Đường Tây Ký về núi Kê Túc là núi nầy cao chót vót, động sâu hun hút, cây cối chằng chịt, đường dốc chập chùng và người đời về sau vì kính trọng tôn giả Đại Ca Diếp nên gọi núi nầy là Tôn Túc.

 Dựa theo kinh Phật Thuyết Di Lặc Đại Thành Phật thì khi Đức Di Lặc giáng sinhthành Phật thì Ngài sẽ dùng thần lực để mở núi Kê Túc. Khi ấy có vị Phạm Vương dùng dầu thơm cõi trời xoa trán và thân của tôn giả Đại Ca Diếp. Tôn giả bèn ra khỏi Diệt Tận Định, trần vai phải, quỳ gối phải, thưa thỉnh và dâng y Tăng già lêbình bát của Đức Thích Ca cho Đức Di Lặc. Theo Đại Trí Độ Luận thì loài người sanh trong thời Đức Phật Di Lặcthân hình to lớn và tuổi thọ cũng cao hơn nhiều so với loài người trong thời Đức Phật Thích Ca. Vì thế mà hội chúng khi thấy tôn giả Đại Ca Diếpthân hình nhỏ bé như côn trùng mà đắp pháp phục và thi triển được thần thông thì tất cả đều kinh ngạc. Điều đáng chú ý là chúng sinh trong thời Đức Di Lặc tuy có thân hình to lớn hơn nhiều, nhưng tấm y mà tôn giả Đại Ca Diếp dâng lên vẫn xứng hợp với Đức Di Lặc.

 Y và bát của Đức Phật đã nói lên phẩm hạnh của một người xuất gia được hình thành nhờ vào nếp sống tinh tấn đạo đức qua việc thọ nhận phẩm vật của người đời để nuôi thân và che thân. Con người sở dĩ chịu quá nhiều đau khổ, tai ương là vì họ quá đam mê ngũ dục. Vì thế hình ảnh từ một bậc vương tử đến một người tầm đạo khổ hạnh cho đến một bậc đạo sư trong tam giới sống một cuộc đời thanh đạm với tấm y bạc màubình bát đơn sơ sẽ luôn luôn là hình ảnh cao đẹp và thâm thúy nhất cho những ai đang theo đuổi về một lẽ sống thuần tịnh, thanh cao và đang hướng về một lý tưởng trong sáng để tự giải thoát cho mình ra khỏi mọi hệ lụy khổ đau.

 Suốt hai trăm năm đầu, từ Tổ Bồ-Đề cho tới Lục Tổ Huệ Năng thì Thiền còn giữ hầu hết màu sắc của Phật giáo Ấn Độ là giản dị và thực tiễn. Từ thời Lục Tổ trở đi thì Thiền Trung Hoa chia thành Bắc Tông do ngài Thần Tú thống lãnh và Nam Tông do Lục Tổ chủ trương. Sau đời Lục Tổ Huệ Năng, Nam Tông lại chia thành năm chi phái. Đó là Lâm Tế, Pháp Nhãn, Tào Động, Vân MônQuy ngưỡng. Trong số đó chỉ còn hai phái mà ngày nay vẫn còn hoạt động mạnh ở Trung Hoa và Nhật Bản. Đó là phái Lâm TếTào Động. Phái Lâm Tế được Thiền Sư Vinh Tây (Eisai) mang vào Nhật năm 1191. Còn phái Tào Động thì do Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) sáng lập ra ở Nhật vào năm 1227.

 Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người Ấn Độ và cũng là đệ tử của Tam Tổ Tăng Xán của Trung Hoa. Sau khi đắc đạo ngài vâng lời sư phụ sang Việt Nam để hoằng dương Phật pháp vào năm 580 Tây lịch. Ngài trụ trì tại chùa Pháp Vântỉnh Hà Đông và ngài Pháp HiểnSơ Tổ Việt Nam của phái nầy. Mãi đến thế kỷ thứ 9, có Ngài Vô Ngôn Thôngđệ tử của Tổ Bá Trượng ở Trung Hoa sang Việt Nam để hoằng dương Phật pháp và từ đó phái Vô Ngôn Thông được ra đời và chính Tổ đã truyền cho Thiền sư Cảm Thành tại chùa Kiến Sơn, Bắc Ninh. Đến thế kỷ thứ 10 khi vua Lý Thánh Tôn đem quân chinh phục nước Chiêm Thành vào năm Kỷ Dậu (1069) có bắt được vua nước ấy là Chế Củ và rất nhiều thường dân cũng như binh lính đem về Việt Nam

 Khi về đến Thăng Long mới phát hiện trong số quan nhân có Thiền Sư Thảo Đường nên được vua Lý Thánh Tôn sắc phong cho Ngài làm quốc sư. Từ đó Ngài lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long và Ngài trở thành Tổ của phái thiền Thảo ĐườngViệt Nam. Đến thế kỷ thứ 12 khi vua Trần Nhân Tông truyền ngôi cho con để lên núi Yên Tử xuất gia và lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử. Phái Trúc Lâm ra đời thâu gồm tinh hoa của ba ba phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường

 Đến thế kỷ thứ 15 thì nhà Trần mất và nhà Lê lên thay thì phái Trúc Lâm lần lần bị tiêu mòn cho đến mất tung tích. Cho đến thế kỷ thứ 19 thì Việt Nam chia làm hai: đàng ngoài có vua Lê, đàng trong có chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn thỉnh các Tổ như Nguyên Thiều thuộc phái Lâm Tế từ Trung Hoa sang truyền bá cho nên Thiền thời chúa Nguyễn chịu ảnh hưởng rất lớn của phái Lâm Tế. Còn vua Lê cũng thỉnh các Tổ như Chuyết Công thuộc phái Lâm Tế hay Tào Động mà sau nầy ngài Liễu QuánThiền Sư Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của tông Lâm Tế nầy. Nhờ đó Việt Nam cũng có nhiều môn phái như ở Trung Hoa. Đó là các phái Vô Ngôn Thông, phái Thảo Đường, phái Trúc Lâm và phái Liễu Quán.

 Người Tây phương thì họ nhìn Thiền Phật giáo qua ngưởng cửa của Thiền Nhật Bản nên họ gọi Thiền là Zen. Zen được định nghĩa như sau:

 “Zen is a Japanese form of Buddhism reaching enlightenment through meditation, contemplation and intuition”.

“Thiền là Phật giáo mang sắc thái Nhật Bản nhằm đạt tới trạng thái giác ngộ nhờ tham thiền, nhập định và trực giác”.

Trong tất cả mọi chúng sinh dù nam hay nữ, dù thông minh hay khờ dại hoặc dù khỏe mạnh hay đau yếu thì ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau. Nhưng tâm thức của con người sau khi trải qua bao nhiêu kiếp sống luân hồi đã bị cái vỏ cứng của vô minh che phủ nên chúng ta không nhận thức được cái Phật tính toàn vẹn trong sạch hoàn hảo kia. Phương cách thực tiễn nhất để trở về với cái Phật tánh thanh tịnh, bất sanh bất diệt, vốn tự đầy đủ là tọa thiền. Ngày xưa từ Đức Phật cho đến các đại đệ tử của Ngài được giác ngộ cũng nhờ công phu tọa thiền. Thật vậy, tâm Phật và tâm của chúng ta không hề khác nhau. Tâm của Phật thì ví như mặt nước hồ thu yên tĩnh mà trên đó mặt trăng chân lý có thể phản chiếu một cách toàn vẹn

Còn tâm của chúng ta thì giống như mặt nước đang bị các làn sóng vô minh khuấy động không thể phản chiếu gì được. Tư tưởng chính là nguồn gốc của sự mê hoặc làm cho tâm thức của con người càng thêm mê muộivọng tưởng chính là sản phẩm của nó. Vì thế thiền địnhphương pháp làm ngưng lại và tiêu diệt những tư tưởng nầy. Do đó một khi những làn sóng tư tưởng khuấy động đã chấm dứt thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng. Đây là thời điểm mà con người nhận ra kiến tánh của mình. Cái kiến tánh nầy sẽ luôn luôn ở với chúng ta và từ đây chúng ta sẽ nhận chân cuộc sống nầy rất thoải mái bình an trong cái tâm trạng đầy phúc lạc thanh thản.

Giữa hai phái Lâm TếTào Động thì cách tu tập của phái Tào Động tương đối giản dị, cụ thểrõ ràng giống như Phật giáo Ấn Độ. Trong khi phái Lâm Tế thì rắc rối, khó hiểu và có tính cánh bí truyền theo kiểu Trung Hoa. Trong xã hội phức tạp căng thẳng của thế kỷ 21 nầy thì cách tu tập giản dị của phái Tào Động có lẽ thích hợp với con người hơn. Khác với phái Lâm Tế là phải dùng “công án” tức là đề tài để thiền giả tư duy quán chiếu và “tham thiền” để đạt chứng ngộ thì phái Tào Động chỉ chủ trương “chỉ quán đả tọa” ,có nghĩa là ngồi thiền chỉ là ngồi thôi chứ không ngồi để suy tưởng một đề tài nào đó với mục đích mong cầu sự giác ngộ.

Một trong những mục đích thực tiễn trong việc thực hành thiền là để xóa bỏ cái trạng thái “xác một nơi mà hồn một nẻo” để giúp con người trở về với trạng thái “thân tâm nhất như” tức là thân tâm là một.

Sống trong một thế giới văn minh thì con người dễ dàng đánh mất trạng thái “tâm với thân là một thể”. Sự phức tạp của đời sống làm con người luôn bận rộn. Nhưng nhìn kỹ lại thì chúng ta chỉ bận rộn có một nữa, có nghĩa hoặc là bận rộn về tinh thần hoặc là thân xác. Chẳng hạn như một luật sư thì suốt ngày bận rộn với đầu óc trong khi thể xác thì thiếu hoạt động. Ngược lại một công nhân trong xí nghiệp thì lúc nào cũng bận rộn với thể xác mà trí óc lại trì trệ. Chính sự sống phiến diện nầy cho nên chúng ta thường hay nghe có những vấn đề như “sức khỏe tinh thần” hay “sức khỏe thể xác” và đây chính là nguyên tắc của thuyết “nhị nguyên”. Dựa theo thuyết nầy thì bất cứ cái gì trong thế gian nầy cũng phải có đối tượng của nó. Thí dụ khi nói bên trong thì phải có bên ngoài, có thiện tức có ác, tinh thần đối với thể xác hay thực tế đối với lý tưởng…

Khi thực tập thiền thì đây là một phương pháp rất hữu hiệu trong việc xóa bỏ các biên giới của sự đối lập nầy để mang con người trở về một nhất thể hòa điệu với chính mình cũng như với thiên nhiên. Khi tâm con người đạt đến một trạng thái yên tĩnh để không còn các khái niệm “nhị nguyên” thì người đó được gọi là kiến tánh tức là thấy được cái bản tâm thanh tịnh của mình. Lúc ấy con người sẽ thấy rằng thiện ác là một, tốt xấu là một, phiền não Bồ-đề là một và sinh tử Niết bàn cũng là một. Tất cả những khái niệm về nhị nguyên hoàn toàn tan biến và chân lý Bất nhị sẽ hiển hiện rất rõ ràngtrong sáng. Dù vậy, sự yên tĩnh nầy không có nghĩa là một trạng thái khô cằn kiệt quệ của tâm thần mà chính là sự yên tĩnh của an vui tự tại.

Chẳng hạn như một khi tâm đã định là cái tĩnh của một con mèo rình bắt chuột. Con mèo có thể nằm bất động hàng giờ, nhưng sự bất động đó là một sự tĩnh lặng đầy tĩnh thức. Nhờ cái tĩnh đó mà con mèo có thể nhẩy nhanh như chớp để vồ con chuột. Ngược lại, nếu tâm chưa định cũng giống như một con chó rình chuột. Chó thì miệng sủa, chân cào và chạy nhảy lăng xăng nhưng khi con chuột chạy qua thì nó lại không bắt kịp.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49674)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34599)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33419)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43876)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56988)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47512)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39387)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38433)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52888)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36573)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32206)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40401)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43436)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31423)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46680)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36135)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28665)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29185)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31846)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28769)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33321)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29091)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60956)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39697)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26616)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29634)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37312)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40049)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26811)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42607)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37232)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28261)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28873)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26361)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27133)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26161)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34565)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27779)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30439)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33224)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28524)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30035)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25460)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21811)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51245)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26683)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28581)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27675)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24329)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27429)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31885)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30154)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27658)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35389)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27401)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29976)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31717)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22981)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24143)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22989)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant