Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Khổ Ấm Nhân Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11565)
Kinh Khổ Ấm Nhân Sự


PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0055 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni Câu Lâu, thành Ca Duy La Bà, Thích Ky Ðề (dòng sát Ðế Lợi). Bấy giờ Thích Ma Ha Năng Cừ, sau buổi trưa thung dung đi đến chỗ đức Thế Tôn. Khi đến xong đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Thích Ðại lực sĩ (Thích Ma Ha Năng Cừ) ngồi qua một bên xong, bạch đức Thế Tôn:

–Như những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết hết. Ðó là ba ý niệm trói buộc: ý dâm trói buộc, ý sân hận ngu si trói buộc. Như vậy, những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết. Nay đây con đã sanh sự dâm dục dính mắc nơi ý mình, đã sanh sự sân hậnngu si dính mắc nơi ý mình. Cho nên, bạch đức Thế Tôn, con đã nghĩ như vầy: “Ta có pháp gì chưa chấm dứt mà khiến ta sanh ra dâm dục đắm trước nơi ý? Sanh ra sự sân hận, ngu si đắm trước nơi tâm ý?”.

Ðức Phật dạy:

–Này Ðại lực sĩ, pháp chưa chấm dứt, khiến cho người ở tại gia cũng không học đạo, không tin thích việc xuất gia, bỏ gia đình. Này Ðại lực sĩ, nếu pháp này chấm dứt thì ngươi cũng muốn ở tại gia, chắc chắn ngươi có thể tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo. Này Ðại lực sĩ, pháp ấy vì chưa chấm dứt cho nên mới khiến ngươi ở tại gia, không tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo.

Bấy giờ Thích Ðại lực sĩ từ tòa đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế Tôn bạch rằng:

-Như vậy, nay con đối với đức Thế Tôn có sự tín thích, cúi mong đức Thế Tôn khéo vì con thuyết pháp. Nhờ thấy pháp mà chấm dứt được nghi ngờ.

Ðức Phật bảo:

Này Ðại lực sĩ, có năm dâm dục, ái niệm, ái sắc, gần với dâm, nhiễm trước: mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết mùi, lưỡi biết vị, thân biết nhiễm trước vật mịn trơn. Ở trong các thứ ấy mà tự vui thích, ái lạc mùi vị, vui thích trong đó. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ở trong cái khí vị dâm có nhiều bại hoại. Thế nào, này Ðại lực sĩ, đối với dâm có nhiều bại hoại? Này Ðại lực sĩ, nếu người con nhà dòng dõi học tập nghề nghiệp khéo léo để tự bảo tồn mạng sống: hoặc cày ruộng, hoặc mua bán, hoặc sao chép sách, hoặc học số, hoặc học toán, hoặc học in ấn, hoặc học thơ, hoặc học làm đồ gốm, hoặc dạy học, hoặc được vua chiêu mộ. Những người ấy bị sự lạnh buốt bức bách, sự nóng lạnh thiêu đốt, phải nhẫn chịu sự đói khát dày vò, bị muỗi mòng, chí rận chích đốt, họ mong cầu tiền tài. Người con nhà dòng dõi kia, như vậy, khởi ra việc làm như vậy, siêng năng làm việc như vậy, nhưng vẫn không thể kiếm ra tiền. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, tăng thêm sự ngu si, siêng năng làm việc mà không có kết quả.

Nếu người con nhà dòng dõi kia khởi ra như vậy, tạo tác như vậy, siêng năng làm việc như vậy, kẻ ấy được nhiều tiền tài. Khi được tiền tài rồi liền giữ gìn đừng cho tiền tài này bị vua chiếm đoạt, đừng để giặc cướp, đừng để lửa cháy, đừng để hư mục, làm lợi, đừng để bị thất lợi. Kẻ ấy gìn giữ tiền của như vậy nhưng vẫn bị vua chiếm đoạt, giặc cướp, lửa cháy, bị tiêu hủy, làm lợi bị thất lợi. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, chỉ thêm sự ngu si.

Lại nữa, sự ưa thích lâu dài chắc chắn sẽ bị bại hoại. Do đó, này Ðại lực sĩ, hiện thân đời này là đại khổ ấm. Nhân vì dâm nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, chính nhân duyên của dâm này, này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân vì dâm đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Nhân vì dâm mà mẹ tranh với con, con tranh với mẹ, cha tranh với con, con tranh với cha, anh tranh với em, em tranh với anh. Họ đấu tranh với nhau: mẹ nói con sai, con nói mẹ sai, cha nói con sai, con nói cha sai, anh nói em sai, em nói anh sai. Huống chi là đối với người ngoài?

Này Ðại lực sĩ, đó là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, do đó vua tranh với vua, Bà la môn tranh với Bà la môn, cư sĩ tranh với cư sĩ, giặc cướp tranh với giặc cướp, thợ thuyền tranh với thợ thuyền. Họ đấu tranh với nhau tạo ra đủ thứ dụng cụ để chiến đấu. Hoặc dùng tay đánh, hoặc dùng đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập, trong đó có người chết, hoặc khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại này. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, vây nhau mà đánh. Trong lúc đó hoặc dùng voi để đấu, hoặc dùng ngựa, hoặc dùng xe, hoặc dùng bộ binh, hoặc dùng đàn bà, hoặc dùng đàn ông, trong lúc đó hoặc có người chết, hay khổ gần chết. Ðó chính là, này Ðại lực sĩ, khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, đi đến thành thật cao ý muốn cong phạt. Những kẻ ấy trong lúc đó, hoặc thổi vào vỏ ốc (thổi tù và), hoặc đánh trống, hoặc dùng tiếng kêu gọi, hoặc dùng chày sắt, hoặc dùng xoa, hoặc dùng kích, hoặc dùng bánh xe bén, hoặc dùng tên bắn lẫn nhau, hoặc xô đá chạy loạn xạ, hoặc dùng nỏ, hoặc lấy nước đồng sôi mà đổ, trong đó có người chết, hay khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, đi đến thành ấp của vua, hoặc xuyên qua tường, phá kho, hoặc ăn cắp đồ vật của người khác, hoặc đánh hoặc chận đường của người khác, phá thành người khác, phá thôn, giết người, kẻ ấy bị quan Hữu Ty bắt được hành xử đủ điều khổ sở, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc cắt tai, hoặc xẻo mũi, hoặc cắt lưỡi, hoặc bứt búi tóc, hoặc bứt tóc, hoặc bứt cả tóc và búi tóc, hoặc bỏ vào trong hòm, hoặc lấy áo phủ lại rồi giết, hoặc lấp cát đá lên trên, hoặc phủ cỏ lên trên, hoặc bỏ trong miệng con lừa bằng sắt, hoặc bỏ trong miệng con sư tử bằng sắt, hoặc bỏ vào trong cái chảo bằng đồng, hoặc bỏ trong chảo bằng sắt, hoặc cắt ra từng đoạn, hoặc dùng dao bén đâm vào hai tay, hoặc nằm trên giường bằng sát nóng, hoặc dùng dầu sôi mà rưới, bỏ vào cối lấy chày sắt mà giã, hoặc cho rắn cắn, hoặc lấy gậy đập, hoặc dùng cây phan, hoặc dẫn đến dưới cây nêu lấy dao cắt đầu. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo thân khổ hạnh, miệng, ý khổ hạnh. Lúc ấy hoặc bị tai hoạn bệnh khổ, nằm ở trên giường, nằm ở trong bóng mát, thân bị bệnh, cực khổ, đau đớn, không vui, mạng sống muốn chấm dứt. Kẻ ấy thân hành khổ hạnh, miệng, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị treo ngược hai chân lên trời, đầu chúc xuống đất, như lúc hoàng hôn, mặt trời muốn lặn xuống ngọn núi lớn, xuống giữa ngọn núi lớn thì bóng hòn núi ấy ngã dài xuống dưới đất cũng như vậy. Ðó là kẻ kia thân hành khổ hạnh, miệng hành khổ hạnh, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị dốc ngược đầu xuống đất. Kẻ ấy nghĩ như vầy: “Thân ta khổ hạnh, miệng khổ hạnh, ý khổ hạnh này bị treo ngược đầu dưới đất bởi ta vốn không thực hành, vốn không làm phước, ta chỉ làm điều tội ác. Vì thích làm ác, tham lam, làm điều hung bạo, không làm hạnh phước, không làm hạnh thiện, không làm chỗ để sau quay về, chắc chắn phải đọa vào ác thú, lúc đó liền có sự thay đổi, hối hận. Thay đổi hối hận rồi, vì sanh bất thiện cho nên cũng là bất thiện. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo tác thân khổ hạnh, khẩu và ý khổ hạnh. Kẻ ấy tạo thân khổ hạnh rồi, tạo khẩu, ý khổ hạnh rồi, do nhân đó, duyên đó khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú. Chính đó, này Ðại lực sĩ, chính là khổ ấm của thân này ở đời sau. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, chính là do năm khí vị dâm mà có nhiều khổ, bại hoại.

Còn Thánh đệ tử thì không như vậy, có tri kiến như chơn, không có hỷ lạc đối với dâm, vì nó tạo ra pháp ác bất thiện. Ðó gọi là Vô thượng tịch tĩnh. Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử cùng tương ưng với dâm pháp như vậy. Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta ít thích dâm, biết nó là khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là tri kiến như thật của ta, ta cũng không đối với sự dâm mà tạo ra pháp ác bất thiện, nhờ đó mà ta được an lạc. Gọi đó là Vô thượng tịch tĩnh. Này Ðại lực sĩ, như vậy ta không tương ưng với dâm pháp.

Này Ðại lực sĩ, có một thời ta ở trong hang Thất Diệp, Bệ Ðà Niệu Chỉ Hữu Hiếp, nước La Duyệt Kỳ. Này Ðại lực sĩ, sau lúc xế chiều ta đứng dậy đi đến bên Chỉ Hữu Hiếp, ta ở trong đó, từ xa trông thấy các Ni Kiền, họ thường không ngồi mà thường quỳ, là hạnh rất thống khổ. Ta đến chỗ họ, đến xong nói với họ rằng: “Vì sao? Này Ni Kiền, lại thường quỳ như thế này mà không thường ngồi? Làm cái điều hết sức khổ hạnh như vậy?”. Họ đáp rằng: “Này Cù Ðàm, có thầy Ni Kiền thân tộc tử nói như vầy: Này các Ni Kiền, (chúng ta vốn tạo các ác hạnh) nay làm pháp khổ hạnh này sẽ tiêu trừ các ác hạnh kia. Ðó là nay thân nghiệp hành, khẩu, ý nghiệp hành, nếu có điều ác hãy đừng làm”. Ta nói với họ: “Này các Ni Kiền, vì sao các ngươi đối với thầy Ni Kiền thân tộc tử mà các ngươi có thể tin, có thể nhận lời của vị ấy được? Sao lại không nghi ngờ vị thầy kia?”. Họ trả lời rằng: “Này Cù Ðàm, vị thầy Ni Kiền thân tộc tử của chúng tôi, chúng tôi không nghi ngờ vị thầy ấy, vì vị ấy có thể tin, có thể chấp nhận được”. Ta đáp lại họ rằng: “Như vậy, như các Ni Kiền của các ngươi, có Ni Kiền, có Ni Kiền kia vốn đã tạo ác hạnh, nên phải làm khổ hạnh cùng cực. Ni Kiền kia chết rồi đời sau sanh ở nhân gian sẽ cũng lại học ở trong Ni Kiền này, phải thường quỳ, không ngồi làm khổ hạnh như vậy, như nay các ngươi đang làm sao?”. Họ nói như vầy:

–Này Cù Ðàm, không theo thiện hạnh vẫn được thiện báo. Vua Tần Phù Bà sống an trụ trong an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy.

Ta đáp:

–Này các Ni Kiền, các ngươi nói như vậy là không đúng. Vì sao vậy? Vì kẻ phàm phu ngu si, bất định, không thiện, không nhàm chán, không biết đủ mới nói rằng: “Vua Tần Phù Bà thường ở nơi thiện, thường được an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy”. Này các Ni Kiền, nên phải trước nhất là biết ta, tại sao ta thường ở trong sự an lạc mà nói: “Vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm?”. Này các Ni Kiền, ta sẽ nói cho các ngươi biết, ta là người khéo sống trong sự an lạc chứ không phải là Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt. Các ngươi không nên nói như vầy: “Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt thường sống trong sự an lạc chứ không phải Sa môn Cù Ðàm mà có thể sánh kịp, này Sa môn Cù Ðàm!”.

Nay ta hỏi các ngươi:

–Ai là người khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm? Ý của các Ni Kiền thế nào? Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong bảy ngày bảy đêm thân đã hoàn toàn an trụ trong an lạc chăng?

Các Ni Kiền thưa:

–Chẳng được vậy, thưa Cù Ðàm.

Ðức Phật hỏi tiếp:

–Hoặc sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, hai ngày hoặc một ngày một đêm vua được tự tại về miệng và ý chăng? Thân đã hoàn toàn được sống trong sự an lạc chăng?

–Thưa Cù Ðàm, không được.

Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong một ngày một đêm, thân của ta có sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Từ hai, ba cho đến bảy ngày bảy đêm miệng và ý của ta có được hoàn toàn khéo sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta và vua, ai thường khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt hay là ta?

–Như chúng tôi nhờ Sa môn Cù Ðàm thuyết giảng nên biết được nghĩa này. Chính Sa môn Cù Ðàm mới là người khéo sống trong an lạc, chứ không phải vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt.

–Này Ðại lực sĩ, hãy giảm thiểu sự dâm, biết nó có nhiều sự khổ, trong sự bại hoại thì nó có nhiều bại hoại nhất. Do đó nên Thánh đệ tử dùng trí tuệ để thấy như chơn, nên đối với dâm, pháp ác bất thiện không hỷ lạc chúng được. Ðó là sự Vô thượng tịch tịnh.

Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử tương ưng cùng pháp dâm như vậy.

Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta giảm thiểu mùi vị dâm vì nó có nhiều khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là ta dùng trí tuệ bình đẳng thấy như chơn, cũng không đối với sự dâm mà có tạo pháp bất thiện, chỉ chuyên thủ hộ để được tự vui. Ðó là sự tịch tĩnh Vô thượng. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ta không tương ưng cùng pháp dâm.

Ðức Phật dạy như vậy, vị Ðại lực sĩ ấy cùng các Tỳ kheo đã nghe đức Thế Tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13725)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13126)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13555)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12447)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12062)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12877)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12954)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13177)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21309)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143570)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15647)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81230)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19551)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20149)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19209)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15105)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 12977)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13104)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48926)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14741)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18569)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16373)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19352)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27988)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22146)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23280)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64736)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33178)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40134)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27298)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74845)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36088)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48949)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30992)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33891)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58793)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46237)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43790)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43183)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45874)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47997)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34599)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33419)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43876)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52890)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40401)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43436)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31423)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28665)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31846)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28769)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33321)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29091)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60956)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39697)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29634)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37312)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26811)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42607)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26362)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant