Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Thiệu Niệm Phật Viên Đốn Tam Kinh

10 Tháng Ba 201512:14(Xem: 11640)
Giới Thiệu Niệm Phật Viên Đốn Tam Kinh
GIỚI THIỆU
NIỆM PHẬT VIÊN ĐỐN TAM KINH

Tỳ kheo Thọ Dã
Bản dịch Việt: Minh Lễ


Giới Thiệu Niệm Phật Viên Đốn Tam KinhTỰA

VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát thuở tu nhơn, pháp tánh sẵn có của hết thảy chúng sanh. Mười phương chư Phật thân chứng được Bát nhã diệu tánh nên gọi là Phật. Tất cả bậc đại sĩ tu hành nơi Bát nhã diệu pháp nên gọi ngài là Bồ tát. Nhưng tất cả chúng sanh mê mờ Bát nhã diệu hạnh vì thế mới gọi chúng sanh mê muội nẻo về.

Tuy nhiênchúng sanh mê mờ quên mất Bát nhã diệu hạnh nhưng chơn không pháp tánh thường tồn , nên nói rằng: không giảm; Chư Phật thân chứng Bát nhã diệu tánh rốt ráo vẫn không một vật, nên gọi: không tăng. Không tăng không giảm tức là pháp tánh bình đẳng; pháp tánh bình đẳng chính là Bát nhã diệu hạnh.

Kinh Kim Cang có câu: “ Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia” chính chỉ cho Bát nhã diệu hạnh. Tại sao? Là vì do không an trụ nơi pháp cũng không trụ nơi tướng tức gọi là an trụ Bát nhã ba la mật.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: An trụ Bát nhã ba la mật như vậy các thiện căn tăng trưởng ra làm sao ? tổn giảm như thế nào ? Văn Thù Sư Lợi thưa rằng: Nếu như đủ năng lực an trụ Bát nhã ba la mật như vậy, ở nơi các thiện căn không tăng không giảm, nơi tất cả pháp cũng không tăng không giảm, ngay tánh tướng Bát nhã ba la mật cũng không tăng không giảm. Bạch Thế Tôn ! tu Bát nhã ba la mật như vậy thì không buông bỏ pháp phàm phu, cũng không ôm giữ pháp thánh hiền. Tại sao ? Là vì Bát nhã diệu hạnh chơn không vô tướng không thấy có pháp nào có thể đáng ôm giữ hay đáng buông bỏ, cũng không thấy sự vui sướng của Niết Bàn hay sự đau khổ của sanh tử. Bát nhã diệu hạnh như ai có khả năng tin chắc không nghi, tu hành chơn thật không hư dối sẽ thừa sức thành tựu quả Phật, còn nói gì là địa vị Bồ tát!

Kế đến kinhNhư lai bất tư nghị cảnh giới” theo lời giải thích của Tổ Thanh Lương nơi phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện thuộc kinh Hoa Nghiêm: Tâm trí khế hợp là nhập, tâm tư không thể suy lường, ngôn thuyết không thể diễn đạt được là bất tư nghị, có tác dụng thoát ly chướng ngạigiải thoát, trí chia chẻ là cảnh. Bất tư nghị cảnh giới tức là sở nhập (đối tượng để thể nhập), khả năng thấu suốt cảnh giới bất tư nghị là năng nhập (chủ thể thể nhập), năng sở đều mất, chỉ tồn tại lại diệu tánh tức chơn như diệu trí gọi đó là Bất tư nghị cảnh giới.

Sau hết, Kinh Đại tập Hiền Hộ (Bát chu tam muội) chỗ trọng yếu nhứt dùng thân miệng ý tu tập ba nghiệp thanh tịnh: Thân nghiệp thanh tịnh tinh tấn hiểu biết giáo lý Phật pháp đại thừa, y theo giới tu hành. Khẩu nghiệp thanh tịnh tuyên dương giáo pháp chư Phật để cho chúng sanh hiểu biết sâu về pháp tánh bình đẳng. Ý nghiệp thanh tịnh tinh chuyên suy gẫm bình đẳng pháp tánh giữa thánh cùng phàm, ngày đêm sáu thời gẫm nghĩ không quên. Tu tập ba nghiệp thanh tịnh Phạm hạnh như vậy được thể nhập Tam muội Nhứt Hạnh, do tam muội Nhứt Hạnh bình đẳng pháp tánh xứng tánh ra công tu tập đó là lục độ vạn hạnh, nhờ nơi lục độ vạn hạnh trang nghiêm cho trí giác vô thượng, gọi đó là Phật. Phật nghĩa là giác ngộ, cũng là diệu trí, tức lý tánh của chơn như, thu gọn lại trọn không một vật, buông phóng ra vạn tượng hiện bày.

Tuần tự thể nhập ba bộ kinh trên, đầu tiên – do Văn Thù Bát Nhã Diệu trí soi sáng lý chơn không vô tướng mà phát khởi diệu hạnh.

Hai—Do Bát Nhã chơn không diệu hạnh thể nhập Bất tư nghị cảnh giới, dù nhập cửa huyền cảnh giới bất tư nghị nhưng không trụ nơi tướng. Ba – Do vô trụ tướng diệu hạnh bát nhã tu tập thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, bậc Hiền ba nghiệp tinh tấn, bậc Hộ (gìn giữ) phạm hạnh thanh tịnh, nên gọi liên hườn thâm nhập cả ba kinh, thành tựu trong chỉ một đời mệnh danh cho đó là đại giáo viên đốn.

Kinh Văn Thù Bát Nhã: Như người học bắn tập lâu chắc giỏi, về sau dù vô tâm nhưng tên bắn ra mũi mũi đều trúng, nếu không do tập lâu thành thói quen lại nói khan là vô tâm không bao giờ có. Do một môn tam muội bao gồm tất cả môn tam muội, lấy một môn tam muội tổng trì các pháp. Các Đại Bồ tát đều nhơn tam muội này chứng Đại Bồ đề.

Pháp Sư Minh Lễ ngụ tại Đại học Vạn Hạnh Thủ đô Saigon nước Việt Nam, người có thỉnh vấn tựa nơi tôi, ý muốn dịch ba bộ kinh Viên Đốn từ Văn Trung Hoa ra Văn Việt để cho tín đồ Phật giáo nơi đất Việt trực nhập được giáo lý đại thừa viên đốn chóng đến

bờ giác vô thượng, nguyện của người sâu rộng như thế kẻ thường thật khó ngang sánh, quả là Tăng già kiệt tác trên Việt sử cận đại, tôi mới có lời rằng: Giáo lý Đại thừa tôi nghiên cứu rất cạn còn nói chi đến đại giáo viên đốn! càng nghĩ kỹ lại càng thêm hổ thẹn,

kính cẩn đọc qua một dạo ba kinh viên đốn, nghĩa kinh sâu xa huyền diệu khó thể suy lường, thật chỉ có Phật cùng Phật mới thấu hiểu cùng tận, Bồ tát đại thừa còn chưa biết suốt đến nguồn, huống hồ gì bạc địa phàm phu!

Nghiên cứu ba bận rồi lại gẫm nghĩ mấy dạo thì cũng có thể hiểu và nói lên sơ sài được đôi ba điều. Bất tư nghị cảnh giới Bát nhã diệu trí kia chờ đợi kẻ trí bậc thánh hiền tách bạch ý nghĩa sâu xa khiến cho người duyệt đọc được nhiều lợi ích đối với chánh pháp .

Xưa Bành Tế Thanh đặc biệt thông suốt pháp môn đại giáo Viên Đốn cho pháp môn Niệm Phật bao gồm hết không thừa pháp nào. Như ai có thể tin chơn thật chắc thật già dặn niệm một câu thánh hiệuA di đà Phật” dọc ngang siêu xuất đại giáo viên đốn nên cổ đức có nói pháp môn tịnh độ bao gồm tất cả pháp. Cận đại đại sư Ấn Quang có lời dạy : “ pháp pháp đều xuôi về tịnh độ”. Một câu Di Đà bao trùm đại giáo viên đốn không chút thừa sót, xác thật không còn nghi ngờ gì nữa. Do đó càng thêm hăng hái thành khẩn tu trì rồi còn trở lại dạy dỗ kẻ có duyên lành, chắc chắn hiện đời thân tâm thanh tịnh, được ưu tiên vào lãnh vực thánh hiền, đến phút cảm ứng đạo giao liền về Cực Lạc. Các sự lợi ích đó thật khó hình dung hết được, chỉ xin viết ít điều sơ lược để cống hiến cho người đọc vậy .

Việt Nam Hoa Nghiêm giảng tự

Tỳ kheo Trung Hoa Thọ Dã kính đề vào ngày mồng tám tháng tư năm Mậu Thân, Trung hoa Dân Quốc năm thứ 57 (1968 ) .

Người gửi bài: Đặng Hữu Phúc




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12715)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11762)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12344)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12393)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11973)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16895)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15069)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12897)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12250)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11932)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16516)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12503)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11267)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10042)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9955)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11248)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11851)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35494)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16094)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12190)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12326)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13854)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11714)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15070)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22893)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant