Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Viên Dung Thuần Khiết

03 Tháng Ba 201512:39(Xem: 11964)
Kinh Viên Dung Thuần Khiết
KINH VIÊN DUNG THUẦN KHIẾT

Lưu Ly trích dịch


Kinh Viên Dung Thuần KhiếtĐối thoại với nữ cư sĩ Gangottara

Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không. Nếu bản tính của hiện tượng là không, vậy thì cái tâm đối đãi muốn nhận đó là thật để có thể nắm bắt được hay trốn tránh, cùng cả một thế giới đang hiện ra như thực trước mắt, đều thực sự là không từng hiện hữu. Tuy nền tảng là bất sinh, nhưng vẫn hiện ra trước mắt như một trò ảo thuật. Bởi vì tính bất sinh, nên cũng chẳng từng hoại diệt. Điều vượt ngoài mọi suy luận nghĩ bàn đó được gọi là niết bàn.

Bối cảnh của kinh này là vườn Kỳ Viên ở ngoại ô thành phố Shravasti ở phía Bắc sông Hằng, miền Trung Ấn. Đây là địa điểm của một trong những tu viện lớn đầu tiên được lập ra cho Đức Phậttăng đoàn, do vị thí chủ lớn là trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường. Trong kinh này, Đức Phật bị chất vấn gắt gao về lý thuyết căn bản của ngài, do nữ cư sĩ can cường Gangottara, một người tinh thông và nắm vững những giáo lý của Đức Phật, tuy hơi thiên về chấp không. Tuy tranh luận rất gay go, nhưng bà luôn luôn kính trọng Đức Phật, gọi ngài là Như Lai.

“Tôi nghe như vầy, một ngày nọ Đức Phật đang ngụ tại vườn Kỳ Viên của trưởng giả Cấp Cô Độc gần thành phố Shravasti (Xá Vệ). Lúc đó, một nữ cư sĩ tên là Gangottara rời nhà ở Sravasti đến yết kiến Đức Phật. Bà đê đầu đảnh lễ trước chân Đức Phật, xong đứng qua một bên, rồi ngồi xuống.

Đức Thế Tôn hỏi Gangottara: “Con từ đâu đến?”

Nữ cư sĩ bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, nếu có ai hỏi một người do ảo thuật tạo ra đến từ đâu, thì câu hỏi đó phải được trả lời như thế nào?”

Đức Phật nói, “Một con người do ảo thuật tạo ra không đến cũng không đi, không sinh cũng không hoại diệt, làm sao có thể hỏi người ấy đến từ đâu được?”

Lúc đó, nữ cư sĩ hỏi, “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả các pháp có thực là huyễn ảo, như trò ảo thuật không? “

Phật nói, “Đúng như vậy. Điều con nói là thực.”

Gangottara hỏi, “Nếu tất cả các pháp là huyễn ảo như trò ảo thuật, vậy tại sao Ngài lại hỏi con đến từ đâu?”

Đức Thế Tôn bảo bà, “Một con người do ảo thuật tạo ra không đi đến những cõi giớiđau khổ, không đi lên cõi trời, cũng chẳng đạt đến niết bàn. Gangottara, con có như vậy không?”

Nữ cư sĩ trả lời: “Theo như con thấy, nếu sắc thân này của con có khác biệt với một người do ảo thuật tạo ra, thì con mới nói được đến chuyện đi tới những cõi giới tốt lành hay đau khổ, hay đạt đến niết bàn. Tuy nhiên, con không thấy có gì khác biệt giữa sắc thân của con và một người do ảo thuật tạo ra, vậy thì làm sao con nói được đến chuyện đi tới những cõi giới tốt lành hay đau khổ, hay đạt đến niết bàn được?

Hơn nữa, bạch Đức Thế Tôn, tánh của niết bàn là không tái sinh trong những cõi giới tốt lành hay đau khổ, cũng không có trải nghiệm nhập diệt niết bàn. Theo như con cảm nhận thì điều đó cũng giống như tánh của con vậy. “

Đức Phật hỏi, “Con không tìm cảnh giới niết bàn sao?”

Gangottara hỏi ngược lại, “Nếu câu hỏi này được đặt ra cho người chưa từng sinh, thì câu trả lời sẽ như thế nào?”

Đức Phật trả lời, “Cái chưa từng sinh chính là niết bàn.”

Gangottara lại hỏi, “Như vậy có phải tất cả các pháp đều giống với niết bàn chăng?”

Đức Phật trả lời, “Đúng thế, đúng như vậy.”

“Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các pháp đều giống với niết bàn, tại sao ngài hỏi con là “sao không tìm cảnh giới niết bàn”?

Lại nữa, Thế Tôn, nếu một người do ảo thuật tạo ra hỏi người khác cũng do ảo thuật tạo ra rằng, “ngươi không tìm cảnh giới niết bàn sao?” thì câu trả lời sẽ như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời: “Một người do ảo thuật tạo ra không có những vọng tưởng trong tâm (nên không tìm kiếm gì cả).”

Gangottra hỏi tới, “Vậy câu hỏi của Như Lai có đến từ những vọng tưởng trong tâm chăng?”

Đức Thế Tôn nói, “Ta đặt câu hỏi bởi vì trong pháp hội này có những thiện nam tín nữ đang có thể được khai ngộ. Ta đã lìa khỏi những vọng tưởng trong tâm. Vì sao? Bởi vì Như Lai biết rằng ngay cả tên gọi của các pháp cũng đã không thể suy luận nghĩ bàn được, huống chi là nói đến chính các pháp và những người đang tìm kiếm niết bàn”.

Gangottara nói, “Nếu vậy, tại sao cần phải tích lũy thiện căn để có thể đạt được giác ngộ?”

Đức Phật trả lời, “Bồ Tát hay thiện căn của Bồ Tát đều không thể nắm bắt được, bởi vì trong tâm Bồ Tát không còn ý nghĩ phân biệttích lũy thiện căn hay không.”

Gangottara hỏi,” Bạch Thế Tôn, Ngài nói “không còn ý nghĩ phân biệt” là ý nghĩa như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời, “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn. Nó không thể nắm giữ được hay thực hiện được; nó không thuần khiết, cũng không phải là bất thuần khiết. Vì sao vậy? Bởi vì, như Như Lai thường dạy, tất cả các pháp đều là không và không có gì ngăn trở như hư không vậy.”

Gangottara hỏi, “Nếu tất cả các pháp đều như hư không, tại sao Đức Thế Tôn lại nói đến ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 18 thức, 12 xứ, 12 nhân duyên, ô nhiễm hay không ô nhiễm, thanh tịnhbất tịnh, luân hồi và niết bàn?”

Đức Phật nói với Gangottara, “Ví dụ như khi ta nói đến một cái “ngã”, tuy ta dùng một ngôn từ để diễn tả một khái niệm, nhưng thật ra tánh của cái “ngã” là không thể nắm bắt được. Ta nói đến tướng, nhưng trong thực tế tánh của tướng là không thể nắm bắt được, và các pháp khác cũng đều như thế, cho tới niết bàn cũng vậy. Như ta không thể tìm thấy nước trong các ảo ảnh, ta cũng không thể tìm thấy tánh trong tướng, và tất cả các pháp khác cũng vậy, cho tới niết bàn cũng đều như thế.

Gangottara, chỉ người nào tu hạnh thanh tịnh theo đúng như Pháp, nhận biết rằng không gì có thể nắm bắt được, mới xứng đáng được gọi là một người tu hạnh thanh tịnh chân chính. Còn kẻ kiêu mạn nói là đã nắm bắt được điều gì đó, ta không thể nói là kẻ đó đã thực sự tu hạnh thanh tịnh. Những kẻ kiêu mạn như thế sẽ hãi sợ và nghi ngờ khi nghe Pháp thâm diệu này. Họ sẽ không thể giải thoát được sinh lão bệnh tử và những lo âu, đau khổ, phiền não của thế gian.

Gangottara, sau khi ta nhập niết bàn, sẽ có một số người có thể truyền bá được Pháp thâm diệu có thể chấm dứt được vòng quay của luân hồi này. Tuy nhiên, cũng có những kẻ điên rồ theo ác kiến, sinh tâm thù ghét những vị chân tu theo chánh pháp, và liên tục tìm cách làm hại họ. Những kẻ điên rồ đó sẽ bị đọa vào địa ngục.”

Gangottara hỏi, “Bạch Thế Tôn, ngài nói Pháp thâm diệu này “có thể chấm dứt vòng quay của luân hồi”, điều đó có nghĩa như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời, “Chấm dứt vòng quay của luân hồi là thấu suốt được chân lý hiện tiền, cõi giới không thể nghĩ bàn. Pháp đó không thể bị hủy hoại hay tiêu diệt được. Do vậy nên được gọi là giáo pháp đoạn diệt luân hồi.”

Nói xong, Đức Thế Tôn mỉm miệng cười tươi, phóng ra từ trán những hào quang mầu xanh, vàng, đỏ, trắng và lưu ly rực rỡ. Những hào quang này chiếu sáng đến vô số quốc độ, đến tận cõi giới cao như cõi trời phạm thiên, rồi thu về nhập vào trán của Đức Phật.

Trước cảnh đó, tôn giả A-Nan nghĩ thầm, “Như Lai, bậc Ứng Cúng Vô Thượng Giác, ít khi nào mỉm cườikhông có lý do.” Tôn giả bèn đứng lên, trật vai bên phải ra, rồi quỳ gối xuống chắp tay trước Phật hỏi rằng:

“Bạch Thế Tôn, vì sao ngài mỉm cười như thế?”

Đức Phật trả lời, “Ta nhớ lại trong quá khứ về trước, một ngàn vị Như Lai cũng đã giảng Pháp này ở đây, và mỗi pháp hội đó đều được dẫn đầu bởi một nữ cư sĩ tên là Gangottara. Sau khi nghe giảng Pháp này, nữ cư sĩ và tất cả pháp hội đều xuất gia, và khi tới thời, họ đều nhập được vô dư niết bàn.”

A-Nan hỏi Đức Phật, “Vậy chúng con gọi kinh này là kinh gì, và thọ trì ra sao?”

Đức Phật nói,”Kinh này gọi là kinh Viên Dung Thuần Khiết và phải được thọ trì đúng như tên ấy.”

Sau khi nghe kinh này, 700 vị tăng và 400 vị ni đều tự xa rời cấu nhiễm , tâm rỗng rang thanh tịnh, thoát ly khỏi những chấp trước.

Lúc đó, chư thiên của Cõi A Tu La đã biến hóa nhiệm mầu vô số loài hoa trời với đủ sắc mầu kỳ diệu rải trên mình Đức Phật, nói rằng, “Thật hiếm thay! Vị nữ cư sĩ này dám đối thoại với Đức Như Lai một cách bình đẳng không sợ hãi. Chắc hẳn vị này trong quá khứ đã từng hầu hạ cúng dường vô số đức Phật và đã vun trồng vô số căn lành với chư Phật.”

Sau khi Đức Phật nói kinh này xong, nữ cư sĩ Gangottara và toàn thể trời, người, atula, càn thát bà (vị thần Hương Ấm) đều vô cùng hoan hỉ được nghe những lời chỉ dạy, và hết lòng kính ngưỡng tin nhận thọ trì.

Bản dịch tiếng Anh: Garma C.C. Chang
Lưu Ly dịch ra tiếng Việt
(Trích từ “An Introduction to the Buddha and his teachings”)
(Ngọc Bảo)



The Gangottara Sutra
The Sutra Called "Flawless Purity"
A dialogue with the Laywoman Gangottara


Thus have I heard.

Once the Buddha was dwelling in the garden of Anathapindika, in the Jeta Grove near Shravasti. At that time, a laywoman named Gangottara came from her dwelling in Shravasti to see the Buddha. She prostrated herself with her head at the Buddha’s feet, withdrew to one side, and sat down.

The world honored one asked Gangottara, “Where do you come from?”

The Laywoman asked the Buddha, “World-Honored One, if someone were to ask a magically produced being where he came from, how should the question be answered?

The World Honored One told her, “A magically produced being neither comes nor goes, is neither born nor perishes; how can one speak of a place from which he comes?

Then the laywoman asked, “Is it not true that all things are illusory, like magic?”

The Buddha said, “Yes indeed, what you say is true”

Gangottara asked, “If all things are illusory, like magic, why did you ask me where I came from?”

The World Honored One told her, “A magically produced being does not go to the miserable planes of existence, nor to heaven; nor does he attain nirvana. Gangottara is that also true of you?”

The Laywoman replied, “As I see it, if my own body were different from a magically produced one, then I could speak of going to the good and miserable planes of existence, or of attaining Nirvana. I see no difference, though, between my body and a magically produced one, so how can I speak of going to the good or miserable planes, or of attaining nirvana?

“Furthermore, World Honored One, nirvana’s very nature is such that it is not reborn in the good or miserable planes, nor does it experience parinirvana. I perceive that the same is true of my own nature.”

The Buddha asked, “Do you not seek the state of nirvana?”

Gangottara asked in turn, “If this question were put to one who had never come into being, how should it be answered?”

The Buddha replied, “That which has never come into being is nirvana itself.”

Gangottara asked, “Are not all things identical with nirvana?”

The Buddha replied, “So they are, so they are.”

“World-Honored One, if all things are identical with nirvana, why did you ask me, ‘Do you not seek the state of nirvana?’ “Furthermore, World-Honored One, if a magically produced being asked another magically produced being, ‘Do you not seek the state of nirvana?’ what would the answer be?”

The World-Honored One told her, “A magically produced being has no mental attachments (and thus seeks nothing).”

Gangottara inquired, “Does the Tathagata’s very question stem from some mental attachment?”

The World-Honored One told her, “I raised the question because there are in this assembly good men and good women who can be brought to maturity. I am free of mental attachments. Why? Because the Tathagata knows that even the names of things are inaprehensible, let alone the things themselves or those who seek nirvana.”

Gangottara said, “If so, why all the accumulation of good roots for the attainment of enlightenment?”

[The Buddha replied,] “Neither Bodhisattvas nor their good roots can be apprehended, because in the Bodhisattvas’ minds there is no discriminative thought as to whether they are accumulating good roots or not.”

Gangottara asked, “What do you mean by ‘no discriminative thought’?”

The World-Honored One answered, “The absence of discriminative thought canot be understood or grasped by means of thinking. Why? Because in the state [of no discriminative thought], even the mind is inapprehensible, let alone the mental functions. This state , in which the mind is inaprehensible, is called inconceivable. It cannot be grasped or realized; it is neither pure nor impure. Why so? Because, as the Tathagata always teaching, all thins are as empty and unimpeded as space.”

Gangottara inquired, “If all things are empty space, why does the World-Honored One speak of form, feeling, conception, impulse and consciousness; the [eighteen] elements; the [twelve[ entrances; the twelve links of dependent origination; the defiled and the undefiled; the pure and the impure; samsara and nirvana?"

The Buddha told Gangottara, "When I speak of a 'self', for example, althugh I express the concept by a word, actually, the nature of 'self' is inapprehensible. I speak of form, but in reality the nature of form is also inapprehensible, and so it is with the other [dharmas], up to nirvana. Just as we cannot find water in mirages, so we cannot find a nature in form, and so it is with the others, up to nirvana.

“Gangottara, only a person who cultivates pure conduct in accordance with the Dharma, perceiving that nothing can be apprehended, deserves to be called a real cultivator of pure conduct. Since the arrogant say that they have apprehended something, they cannot be said to be firmly established in genuine pure conduct. Such arrogant people will be terrified and doubtful when they hear this profound Dharma. They will be unable to liberate themselves from birth, old age, sickness, death, worry, sorrow, suffering and distress.

“Gangottara, after my parinirvana, there will be some people able to spread this profound Dharma, which can stop the rounds of samsara. However, some fools, because of their evil views, will hate those Dharma-masters, and will contrive to harm them. Such fools will fall to the hells for that.”

Gangottara asked, “You speak of ‘this profound Dharma which can stop the rounds of samsara.’ What do you mean by ‘stop the rounds of samsara’?”

The World-Honored One replied, “To stop the rounds of samsara is to [penetrate] reality, the realm of the inconceivable. Such a Dharma cannot be damaged or destroyed. Hence, it is called he Dharma that can stop the rounds of samsara.”

Then the World-Honored One smiled graciously and emitted from his forehead blue, yellow, red, white, and crystalline lights. The lights illuminated all the numerous lands, reaching as high as the Brahma Heaven, then returned and entered the top of the Buddha’s head.

Seeing this, the Ven. Ananda thought to himself, “The Tathagata, the Worthy One, the Supremely Enlightened One, does not smile without a reason.” He rose from his seat, uncovered his right shoulder, knelt on his right knee, and joined his palms toward the Buddha, inquiring, “Why did the Budha smile?”

The Buddha replied, “I call that, in the past, a thousand Tathagatas also taught this Dharma here, and each of those assemblies was also led by a laywoman named Gangottara. After hearing this Dharma preached, the laywoman and all the assembly left the household life. [In time,] they entered the nirvana without residue.”

Ananda asked the Buddha, “What name should be given to this sutra and how should we accept and uphold it?”

The Buddha said, “This sutra is called ‘Flawless Purity’, and you should accept and uphold it by that name.”

During the preaching of this sutra, seven hundred monks and four hundred nuns were liberated from defilements forever and their minds were set free.

At that time, the gods of the Desire-Realm magically produced various kinds of wonderful celestial flowers and scattered them upon the Buddha, saying “Rare indeed is this laywoman, who can converse fearlessly with the Tathagata on equal terms. She must have served and made offerings to countless Buddhas, and planted good roots of every kind in their presence.

After the Buddha had finished speaking this sutra, the laywoman Gangottara and all the gods, humans, asuras, gandharvas, and so forth were jubilant over the Buddha’s teaching. They accepted it with faith and began to follow it with veneration.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12776)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11754)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12330)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19827)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11994)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12675)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16124)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12885)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13155)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16511)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11824)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11165)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10973)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10039)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11964)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11117)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12068)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12564)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10768)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17985)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11853)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12380)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53062)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12318)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13843)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant