Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8238)
30-pháp Hội Diệu Huệ Đồng Nữ

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXX
Pháp hội

DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ

Thứ ba mươi 

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người và đại Bồ Tát mười ngàn người câu hội. 

Bây giờ thành Vương Xátrưởng giả nữ tên Diệu Huệ mới tám tuổi dung mạo đoan chánh xinh đẹp đầy đủ tướng người ai thấy đều vui thích, đã từng thân cận cúng dường trồng các căn lành nơi vô lượng chư Phật quá khứĐồng nữ Diệu Huệ đến lễ chưn đức Như Lai nhiễu ba vòng qùy chắp tay bạch rằng: 

«Đấng Vô thượng Chánh giác 
Làm đèn sáng thế gian 
Xin cho phép tôi hỏi 
Sở hành của Bồ Tát ».

Đức Phật phán : «Nay cho ngươi tùy ý hỏi, Phật sẽ giải thuyết để dứt lưới nghi».

Diệu Huệ liền nói kệ thỉnh hỏi: 
«Làm sao được thân đẹp 
Đại phú và tôn qúi 
Lại do nhơn duyên gì 
Quyến thuộc khó trở hoại 
Thế nào thấy thân mình 
Được thọ biến hóa sanh 
Ngồi hoa sen ngàn cánh 
Diện phụng Phật Thế Tôn 
Thế nào chứng nhập được 
Tự tại thắng thần thông 
Đến khắp vô lượng cõi 
Kính lễ lạy chư Phật 
Thế nào được không oán 
Lời nói được người tin 
Trừ sạch các pháp chướng 
Lìa hẳn các ma nghiệp 
Thế nào lúc mạng chung 
Được thấy chư Phật hiện 
Nghe nói pháp thanh tịnh 
chẳng bị khổ não bức 
Đấng đại bi vô thượng 
Xin thương giải thuyết cho »

Đức Phật bảo Diệu Huệ : «Lành thay lành thay! Khéo hỏi được nghĩa thâm diệu ấy. Lắng nghe kỹ và khéo suy gẫm đức Phật sẽ nói cho ».

Diệu Huệ bạch rằng : «Vâng bạch thế Tôn! Xin muốn được nghe ».

Đức Phật dạy : «Nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thọ thân hình đoan chánh : một là nơi ác hữu chẳng khởi lòng giận hờn, hai là an trụ đại từ, ba là rất thích chánh pháp, bốn là tạo hình tượng Phật ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

« Sân hoại thiện căn chớ tăng trưởng 
Từ tâm thích pháp tạo hình Phật 
Sẽ được thân đủ tướng trang nghiêm 
Tất cả chúng sanh thường ưa thấy.

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân phú quí : một là bố thí đúng thời, hai là không lòng khinh mạn, ba là vui mừng mà cho, bốn là chẳng mong quả báo ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Đúng thời bố thí không khinh mạng 
Hoan hỉ đem cho chẳng mong cầu 
Nơi bốn hạnh nầy thường siêng tu 
Thọ sanh sẽ được đại phú quí ».

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được quyến thuộc chẳng trở hoại : một là khéo rời bỏ được lời ly gián, hai là làm cho chúng sanh tà kiến an trụ chánh kiến, ba là chánh pháp sắp diệt hộ trì cho còn lâu, bốn là dạy chúng sanh xu hướng Phật Bồ Đề ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng : 

«Bỏ rời ly giántà kiến 
Chánh pháp sắp diệt hay hộ trì 
Khiến chúng sanh trụ đại Bồ Đề
Sẽ được quyến thuộc không hư hoại ».

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp sẽ được ở trước chư Phật hóa sanh ngồi tòa liên hoa : một là cầm hoa quả đẹp ngon và hương thơm dâng cúng chư Phật và các chùa tháp, hai là trọn chẳng vọng làm tổn hại kẻ khác, ba là tạo tượng Phật ở trên đài sen, bốn là với Phật Bồ đề hay sanh lòng tin thanh tịnh ».

 Đức Thế Tôn nói Kệ rằng: 

«Hoa hương cúng Phật và chùa tháp
Chẳng hại kẻ khác và tạo tượng 
Rất tin hiểu nơi Phật Bồ Đề 
Được ngồi hoa sen sanh trước Phật.

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thần thông thù thắng từ một Phật độ đến một Phật Độ: một là thấy người tu pháp lành thì chẳng làm chướng não, hai là lúc người thuyết pháp trọn chẳng làm trở ngại ba là thắp đèn sáng cúng dường tháp Phật, bốn là siêng tu tập các môn thiền định »

 Đức Thế Tôn kệ rằng: 

«Thấy người tu lành thuyết chánh pháp 
Chẳng hủy báng cũng chẳng trở ngại 
Tháp thờ Như Lai cúng đèn sáng 
Siêng tu thiền định dạo nước Phật. 

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì ở đời không oán thù : một là dùng lòng không dua vạy mà gần gũi thiện hữu, hai là là nơi pháp thù thắng của người không lòng tật đố, ba là người được danh dự lòng vui mừng theo, bốn là nơi hạnh Bồ Tát không lòng khinh hủy».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Chẳng lòng dua vạy gần hạnh lành 
Người có hơn ta không ganh ghét 
Người được danh dự thường hoan hỉ 
Chẳng chê Bồ Tát được không oán.

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì lời nói được người tin : một là phát ngôn tu hành thường khiến tương ưng, hai là ở chỗ thiện hữu chẳng dấu lỗi quấy, ba là nơi pháp được nghe chẳng tìm lỗi dở, bốn là với người thuyết pháp chẳng sanh ác tâm ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Phát ngôn tu hành thường tương ưng 
Chẳng giấu tội mình với thiện hữu 
Nghe kinh chẳng tìm lỗi nhơn pháp
Lời nói tất cả được người tin. 

 Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì có thể rời lìa pháp chướng mau được thanh tịnh: một là thâm tâm ưu thích nhiếp trì ba luật nghi, hai là nghe kinh thậm thâm chẳng sanh lòng nghi báng, ba là thấy Bồ Tát tân phát ý thì sanh tâm Nhứt thiết trí bốn là đồi với tất cả hữu tình có tâm đại từ bình đẳng ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

 «Dùng thâm ý nguyện nhiếp luật nghi 
Nghe kinh thậm thâm hay tin hiểu 
Kính sợ phát tâm tưởng là Phật 
Tâm từ khắp độ tiêu chướng nạn.

Lại nầy Diệu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay rời lìa các ma nghiệp: một là biết rõ pháp tánh bình đẳng, hai là phát khởi tinh tiến, ba là thường siêng niệm Phật, bốn là tất cả thiên căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ Đề

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Biết được các tánh bình đẳng 
Thường khởi tinh tiến Như Lai 
Hồi hướng tất cả các thiện căn 
Chúng ma không thể được dịp hại. 

 Lại nầy Diễu Huệ ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì lúc lâm chung được chư Phật hiện tiền : một là người có cầu muốn gì thì bố thí cho đầy đủ, hai là nơi các pháp lành sanh tin hiểu sâu, ba là với chư Bồ Tát thí cúng đồ trang nghiêm, bốn là ở nơi Tam bửu siêng lo cúng dường ».

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Người có cầu dùng thí cho đủ 
Tin hiểu pháp sâu cúng trang nghiêm
Tam bửu phước điền siêng cúng dường 
Lâm mạng chung thời thấy Phật hiện ».

Diệu Huệ đồng nữ bạch rằng : Bạch đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật dạy về hạnh Bồ Tát tôi sẽ phụng hành. Trong bốn mươi hạnh ấy nếu tôi thiếu một hạnh mà chẳng tu thì trái với lời đức Phật dạy là khi dối đức Như lai ».

 Tôn giả Mục Kiền Liên bảo đồng nữ Diệu Huệ rằng : «Hạnh Bồ Tát rất khó làm được, nay cô phát nguyện lớn thù thắng ấy, có phải là cô đã được tự tại nơi nguyện ấy chăng?».

Diệu Huệ bạch Tôn Giả rằng : «Nếu hoằng nguyện của tôi chơn thiệt chẳng hư có thể làm cho các hạnh Bồ Tát được viên mãn thì xin cõi Đại Thiên Tam Thiên nầy chấn động sáu cách trời mưa hoa đẹp trống trời tự kêu ».

Đồng nữ nguyện xong, hư không tuôn hoa như mưa, trống trời kêu vang, cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách. 

Diệu Huệ bạch Tôn Giả rằng : «Do lời phát nguyện chơn thiệt ấy đời vị lai tôi sẽ thành Phật như đức Thích Ca Như Lai. Cõi nước tôi không có các ma sự và tên ác thú nữ nhơn. Nếu lời tôi nói đây không hư vọng thì nguyện cho thân thể đại chúng đều kim sắc ».

Đồng nữ nói xong cả chúng đều thành kim sắc

Tôn giả Mục Kiền Liên rời chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu đảnh lễ chưn Phật mà bạch rằng : «Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi trước lạy Bồ Tát sơ phát tâm và chúng đại Bồ Tát ».

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử hỏi Diệu Huệ : «Cô an trụ pháp gì mà phát nguyện thành thiệt ấy?».

Đồng nữ Diệu Huệ đáp rằng : «Bạch Văn Thù Sư Lợi ! Lời hỏi ấy chẳng phải. Tại sao? Vì trong pháp giới không có sở trụ vậy ».

 Lại hỏi: «Thế nào gọi là Bồ Đề? ».

 Đáp: «Vô phân biệt pháp, đây gọi là Bồ Đề ».

 Lại hỏi : «Thế nào gọi là Bồ Tát? ».
Đáp : «Tất cả các pháp đồng tướng hư không, đây gọi là Bồ Tát ».
Lại hỏi : «Thế nào gọi là Bồ Đề? ».
Đáp : «Hạnh dường như dương diệm cốc hưởng, đây là hạnh Bồ đề ».
Lại hỏi : «Y cứ mật ý gì mà nói như vậy? ».
Đáp : « Ở trong đây tôi không thấy có chút pháp mật chẳng phải mật ».
Lại hỏi : «Nếu như vậy thì tất cả phàm phu lẽ ra là Bồ Đề? ».
Đáp : «Ngài cho rằng Bồ Đề khác với phàm phu ư! Chớ quan niệm như vậy. Tại sao? Vì đồng một tướng pháp giới chẳng thủ chẳng xả không có thành hoại vậy ».
Lại hỏi : «Trong nghĩa nầy người hiểu rõ được số ấy có bao nhiêu? ».
Đáp : «Như bao nhiêu lượng tâm tâm sở huyễn hóa thì có bao nhiêu chúng sanh huyễn hoá hay hiểu rõ nghĩa nầy »
Lại hỏi :«Huyễn hóa vốn không có sao lại có tâm tâm sở như vậy?».
Đáp : «Pháp giới cũng vậy chẳng có chẳng không, nhẫn đến Như Lai cũng chẳng có chẳng không như vậy ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật rằng : «Bạch đức Thế Tôn ! Đồng nữ Diệu Huệ nầy thật rất hi hữu hay thành tựu được pháp nhẫn như vậy ».
Đức Phật phán : « Đúng như vậy, thiệt như lời Văn Thù Sư lợi nói.Nhưng thuở qua khứ đồng nữ nầy đã phát tâm Bồ đề trải qua ba mươi kiếp rồi ta mới phát xu vô thượng Bồ ĐềĐồng nữ nầy cũng làm cho Văn Thù Sư Lợi an trụ vô sanh nhẫn ».
Văn thù Sư Lợi Bồ Tát liền day lại đảnh lễ đồng nữ Diệu Huệ và bạch rằng : «Thuở quá khứ vô lượng kiếp trước tôi đã từng cúng dường cô, chẳng ngờ ngày nay lại được thân cận».
Diệu Huệ nói : «Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài chớ sanh khởi phân biệt như vậy. Tại sao, vì do vô phân biệt mà được vô sanh nhẫn vậy».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại hỏi Diệu Huệ đồng nữ : «Nay cô vẫn chưa chuyển đổi thân nữ nhơn ư?».

Diệu Huệ nói : « Tướng nữ nhơn trọn bất khả đắc thì nay chuyển đổi những gì. Bạch Văn Thù Sư Lợi ! Tôi sẽ vì Ngài mà dứt trừ nghi hoặc. Do vì tôi nói lời chơn thiệt như vầy : Đời đương lai lúc tôi được vô thượng Bồ đề, trong chánh pháp của tôi các hàng Tỳ Kheo nghe lời truyền thiện lai xuất gia nhập đạo. Trong quốc độ tôi tất cả chúng sanh thân đều kim sắc ăn mặc đồ dùng như cung trời thứ sáu đều tùy niệm hiện ra, không có ma sự và các ác đạo cũng không có tên nữ nhơn, có tòa bảy báu trên giăng lưới báu, hoa sen bảy báu trùm với tướng báu, như cõi thanh tịnh trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi được thành đồng nhau không khác. Nếu lời tôi nói trên đây không hư vọng thì nay toàn đại chúng thân đều kim sắc, thân nữ nhơn của tôi biến thành nam tử như Tỳ Kheo trí pháp ba mươi tuổi».

Đồng nữ nói xong, toàn đại chúng thân đều kim sắc. Diệu Huệ chuyển thành nam tử như Tỳ Kheo tri pháp ba mười tuổi. 

Bấy giờ chư Thiên Địa cư chuyền nhau ca ngợi : « Thiện tai! Đại tai ! Diệu Huệ đại Bồ Tát có thể thuở vị lai lúc thành Bồ Đề cõi nước nghiêm tịnh công đức như vậy ».

 Đúc Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : «Diệu Huệ Bồ Tát nầy đời Đương Lai thành Phật hiệu là Thù Thắng công Đức Bửu Tạng Như Lai ».

 Đức Phật nói lời nầy có ba mươi câu chi chúng sanh an trụ bất thối chuyển nơi Vô thượng Bồ Đề, tám mươi câu chi chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn chúng sanh được trí chúng. Năm ngàn Tỳ kheo hành Bồ Tát thừa lòng muốn thối chuyển nay nhơn vì thấy Diệu Huệ Bồ Tát ý nguyện thiện căn oai đức thù thắng nên đều cởi thượng y đang mặc dâng lên đức Như Lai rồi phát hoằng thệ rằng: « Do thiện căn nầy chúng tôi quyết định thành Vô thượng Bồ đề ».

 Vì chư Tỳ Kheo nầy đem thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề nên siêu chín mươi kiếp khổ sanh tử được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề

 Đức Phật liền thọ ký cho năm ngàn Tỳ kheo ấy rằng : « Đời đương lai qua sau ngàn kiếp, trong kiếp Vô Cấu Quang Minh, thế giới Dương Diệm, quốc độ Nam Nhẫn, trong một kiếp nối kế nhau thành Phật đồng một hiệu là Biện Tài Trang Nghiêm Như Lai ».

Đức Phật phán tiếp: «Nầy Văn Thù Sư Lơi! Pháp môn như vậy có đại oai đức hay khiến chư Bồ Tát và người Thanh Văn thừa được lợi ích lớn. 

 Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Hoặc có thiện nam tử thiện nữ nhơn vì cầu Bồ đề mà không phương tiện thiện xảo hành sáu Ba La mật mãn ngàn kiếp. Lại có người trong nữa tháng biên chép đọc tụng kinh nầy, thì phước đức đây hơn phước đức trên ngàn muôn ức lần, nhẫn đến không toán số thí dụ

 Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Pháp Môn vi diệu như vậy là căn bổn của các khế kinh Đại thừa, ta đem phó chúc cho ông, đời đương lai ông thọ trì đọc tụng giải thuyết cho người. 

 Ví như vua Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế thì bảy báu đều hiện ra tại trước vua ; Sau khi vua mất thì bảy báu cũng mất theo.

 Pháp môn vi diệu nầy lưu hành tại thế gian thì chính là pháp nhãn thất Bồ đề phần v.v…của chư Như Lai chẳng mất. Nếu không lưu hành thì chánh pháp sẽ mất. 

 Vì thế nên, nầy Văn THù Sư Lợi ! Nếu người muốn cầu Bồ đề thì nên phát khởi tinh tiến biên chép kinh nầy thọ trì đọc tụng vì người mà giải thuyết. Đây là lời dạy của Phật, chớ để đời sau phải sanh lòng hối hận ».

 Đức Phật nói kinh nầy rồi, Diệu Huệ Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và cả đại chúng Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đếu rất vui mừng tín thọ phụng hành

PHÁP HỘI DIỆU HUỆ ĐỒNG NỮ 
THỨ BA MƯƠI 
HẾT 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15550)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13141)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13572)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12488)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12092)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12898)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12987)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13218)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21338)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143674)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15677)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81284)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19584)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20212)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19243)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15148)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13029)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13132)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48971)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14763)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18586)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16385)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19366)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28040)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22157)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23298)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64775)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33197)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40168)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27317)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74893)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36120)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48983)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31015)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33927)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58816)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46258)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43807)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43217)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45916)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48017)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52922)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40447)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43471)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28685)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31880)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28802)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33350)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60970)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37355)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26827)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42643)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant