Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Phẩm Quán Chúng Sanh

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6973)
7. Phẩm Quán Chúng Sanh

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

VII PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (1)

Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng : 
- Bồ Tát quán sát chúng sanh phải thế nào ? 

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra, Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như ánh nắng dợn, như vang của tiếng, như mây giữa hư không, như bọt nước, như bóng nổi, như cây chuối bền chắc, như chớp dừng lâu, như đại thứ năm(2), như ấm thứ sáu(3), như tình (căn) thứ bảy(4), như nhập thứ mười ba(5), như giới thứ mười chín(6). Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như sắc chất cõi vô sắc(7), như mộng lúa hư, như thân kiến của Tu đà hoàn(8), như sự nhập thai của A na hàm(9), như tam độc của A la hán (10), như tham giận phá giới của Bồ Tát chứng vô sanh nhãn, như tập khí phiền não của Phật, như người mù thấy sắc tượng, như hơi thở ra vào của người nhập diệt tận định(11), như dấu chim giữa hư không, như con của đàn bà không sanh đẻ (Thạch nữ)(12), như phiền não của người huyễn hóa, như cảnh chiêm bao khi đã thức, như người diệt độ thọ lấy thân, như lửa không khói. Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế đó. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi : 
- Nếu Bồ Tát quán sát như thế phải thật hành lòng từ thế nào ? 

Ông Duy Ma Cật đáp rằng : 
- Bồ Tát quán sát như thế rồi phải tự nghĩ rằng : “Ta phải vì chúng sanh nói pháp như trên, đó là lòng từ chân thật. Thật hành lòng từ tịch diệt, bởi vì không sanh. Thật hành lòng từ không nóng bức, bởi không có phiền não. Thật hành lòng từ bình đẳng, bởi ba đời như nhau. Thật hành lòng từ không đua tranh, bởi không có khởi. Thật hành lòng từ không hai, bởi trong ngoài (căn trần) không hiệp. Thật hành lòng từ không hoại, bởi hoàn toàn không còn. Thật hành lòng từ kiên cố, bởi lòng không hủy hoại. Thật hành lòng từ thanh tịnh, bởi tánh các pháp trong sạch. Thật hành lòng từ vô biên, vì như hư không. Thật hành lòng từ A la hán, vì phá các giặc kiết sử(13). Thật hành lòng từ Bồ Tát, vì an vui chúng sanh. Thật hành lòng từ Như Lai, vì đặng tướng như như. Thật hành lòng từ của Phật, vì giác ngộ chúng sanh. Thật hành lòng từ tự nhiên, vì không nhơn đâu mà đặng. Thật hành lòng từ Bồ Đề, chỉ có một vị. Thật hành lòng từ vô đẳng (không chi sánh bằng), vì đoạn các ái kiến. Thật hành lòng từ đại bi, dẫn dạy cho pháp Đại thừa. Thật hành lòng từ không nhàm mỏi, quán không, vô ngã. Thật hành lòng từ pháp thí, không có luyến tiếc. Thật hành lòng từ trì giới, để hóa độ người phá giới. Thật hành lòng từ nhẫn nhục, để ủng hộ người và mình. Thật hành lòng từ tinh tấn, để gánh vác chúng sanh. Thật hành lòng từ thiền định, không thọ mùi thiền. Thật hành lòng từ trí tuệ, đều biết đúng nhịp. Thật hành lòng từ phương tiện, thị hiện tất cả. Thật hành lòng từ không ẩn dấu, lòng ngay trong sạch. Thật hành lòng từ thâm tâm, không có hạnh xen tạp. Thật hành lòng từ không phỉnh dối, không có lừa gạt. Thật hành lòng từ an vui, làm cho tất cả được sự an vui của Phật. Lòng từ của Bồ Tát là như thế đó. 

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi : 
- Sao gọi là lòng bi ? 
- Bồ Tát làm công đức gì cốt để cho chúng sanh
- Sao gọi là lòng hỷ ? 
- Có lợi ích đều hoan hỷ, không hối hận
- Sao gọi là lòng xả ? 
- Những phước báu đã làm, không có lòng hy vọng

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi : 
- Sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi đâu ? 

Ông Duy Ma Cật đáp : 
- Bồ Tát ở trong sanh tử đáng sợ đó, phải y nơi sức công đức của Như Lai

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi : 
- Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi đâu ? 
- Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi chỗ độ thoát tất cả chúng sanh

Lại hỏi : 
- Muốn độ chúng sanh phải trừ những gì ? 
- Muốn độ chúng sanh phải trừ phiền não
- Muốn trừ phiền não phải thật hành những gì ? 
- Phải thật hành chánh niệm. 
- Thế nào là thật hành chánh niệm ? 
- Phải thật hành pháp không sanh không diệt. 
- Pháp gì không sanh, pháp gì không diệt ? 
- Pháp bất thiện không sanh, pháp thiện không diệt. 
- Pháp thiện và pháp bất thiện lấy gì làm gốc ? 
- Thân là gốc. 
- Thân lấy gì làm gốc ? 
- Tham dục là gốc. 
- Tham dục lấy gì làm gốc ? 
- Hư vọng phân biệt là gốc. 
- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc ? 
- Tưởng điên đảo là gốc. 
- Tưởng điên đảo lấy gì làm gốc ? 
- Không trụ(14) là gốc. 
- Không trụ lấy gì làm gốc ? 
- Không trụ thì không gốc. 
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi, ở nơi “gốc không trụ mà lập tất cả pháp”. 

Bấy giờ trong nhà ông Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung rải hoa trời trên mình các vị Bồ TátĐại đệ tử. Khi hoa đến mình các vị Bồ Tát đều rơi hết, đến các vị Đại đệ tử đều mắc lại. Các vị Đại đệ tử dùng hết thần lực phủi hoa mà hoa cũng không rớt. 

Lúc ấy, Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất
- Tự sao mà phủi hoa ? 

Xá Lợi Phất nói : 
- Hoa này không như pháp nên phủi. 

- Chớ bảo hoa này là không như pháp. Vì sao ? Hoa này nó không có phân biệt, tự Nhân giả phân biệt đó thôi ! Nếu người xuất gia ở trong Phật phápphân biệt là không như pháp, nếu không phân biệtnhư pháp. Đấy, xem các vị Bồ Tát, hoa có dính đâu ? Vì đã đoạn hết tưởng phân biệt. Ví như người lúc hồi hộp sợ, thời phi nhơn mới thừa cơ hại đặng. Như thế, các vị Đại đệ tử vì sợ sanh tử nên sắc thinh, hương, vị, xúc mới thừa cơ được, còn người đã lìa được sự sợ sệt thì tất cả năm món dục không làm chi đặng. Do tập khí kiết sử chưa dứt hết nên hoa mới mắc nơi thân thôi, còn người kiết tập(15) hết rồi, hoa không mắc được. 

Ngài Xá Lợi Phất nói : 
- Thiên nữ ở nhà này đã được bao lâu ? 
- Tôi ở nhà này như Ngài được giải thoát
- Ở đây đã lâu ư ? 
- Ngài giải thoát cũng lâu như thế nào ? 

Ngài Xá Lợi Phất nín lặng không đáp. 
Thiên nữ nói : 
- Tại sao bực kỳ cựu(16) đại trí lại nín lặng ? 

- Giải thoát không có ngôn thuyết, nên ở nơi đó ta không biết nói làm sao ! 

Thiên nữ nói : 
- Ngôn thuyết văn tự đều là tướng giải thoát. Vì sao ? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên, văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất, chớ rời văn tự mà nói giải thoát. Vì sao ? Vì tất cả pháp là tướng giải thoát

Ngài Xá Lợi Phất hỏi : 
- Không cần ly dâm, nộ, si, được giải thoát ư ? 

Thiên nữ nói : 
- Phật vì kẻ tăng thượng mạn nói ly dâm, nộ, si là giải thoát thôi, nếu kẻ không tăng thượng mạn thời Phật nói tánh của dâm nộ, si là giải thoát

Ngài Xá Lợi Phất nói : 
- Hay thay, hay thay, Thiên nữ ! Nàng được cái gì, chứng cái gì mà biện tài như thế ? 

Thiên nữ nói : 
- Tôi không được, không chứng, mới được biện tài như thế. Vì sao ? -Nếu có được, có chứng thời ở trong Phật pháp là kẻ tăng thượng mạn(17). 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ
- Ở trong ba thừa(18) , ý nàng cầu thừa nào ? 

Thiên nữ nói : 
- Cần pháp Thanh Văn để hóa độ chúng sanh, tôi làm Thanh Văn; cần pháp nhơn duyên để hóa độ chúng sanh, tôi làm Bích Chi Phật, cần pháp đại bi để hóa độ chúng sanh, tôi làm Đại thừa. Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Như người vào rừng chiêm bặc(19), chỉ ngửi có mùi chiêm bặc, chứ không còn mùi hương nào khác. Cũng như người vào nhà này chỉ ngửi mùi hương công đức của Phật chớ không ưa ngửi mùi hương công đức của Thanh VănBích Chi Phật

Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Có những vị Đế thích Phạm Vương, Tứ Thiên Vươngchư Thiên, long thần, quỉ cả thảy vào trong nhà này nghe Thượng nhân đây giảng nói chánh pháp, đều ưa mùi hương công đức của Phật phát tâm rồi ra. 

Thưa Ngài Xá Lọi Phất, tôi ở nhà này đã mười hai năm chưa từng nghe nói pháp Thanh Văn, Bích chi Phật, Chỉ nghe đại từ đại bi của Bồ Tát và những pháp bất khả tư nghị của chư Phật. Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Nhà này thường hiện ra tám pháp “chưa từng có, khó đặng”. Tám pháp là gì ?

Nhà này thường dùng ánh sáng sắc vàng soi chiếu ngày đêm không khác, chẳng cần ánh sáng của nhật nguyệt soi chiếu, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ nhất, – Nhà này hễ ai vào rồi không còn bị các thứ cấu nhiễm làm não loạn, đó là pháp “chưa từng có khó đặng” thứ hai. – Nhà này thường có các vị Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các Bồ Tát ở phương khác nhóm họp không ngớt, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ ba. – Nhà này thường nói sáu pháp Ba la mật và pháp bất thối chuyển, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ tư. Nhà này thường trổi âm nhạc bực nhứt của trời, người, vang ra vô lượng tiếng pháp, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ năm. – Nhà này có bốn kho tàng lớn chứa đầy các món báu, giúp khắp cho kẻ nghèo thiếu, hễ cầu liền được không bao giờ hết, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ sáu. – Nhà này Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bửu Đức, Phật Bửu Diệm, Phật Bửu Nguyệt, Phật Bửu Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhứt Thiết Lợi Thành, vô lượng chư Phật trong 10 phương, khi Thượng Nhân đây niệm đến liền hiện tới rộng nói tạng pháp bí yếu của chư Phật, khi nói xong các Ngài đều trở về, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ bảy. – Nhà này tất cả cung điện tốt đẹp của chư Thiên và các cõi Tịnh độ của chư Phật đều hiện ở trong đây, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ tám. 

Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Nhà này thường hiện ra 8 pháp “chưa từng có, khó đặng” như thế, ai thấy được việc không thể nghĩ bàn đó mà lại còn ham ưa pháp Thanh Văn ư ? 
Ngài Xá Lợi Phất nói : 
- Vì sao ngươi không chuyển thân nữ kia đi ? 

Thiên nữ nói : 
- Mười hai năm nay tìm kiếm mãi cái tướng nữ nhơn hẳn không thể đặng, phải chuyển đổi cái gì ? Ví như nhà huyễn thuật hóa ra một người nữ huyễn, nếu có người hỏi rằng : Sao không chuyển thân nữ đó đi ? Vậy người hỏi đó có đúng chăng ? 

Ngài Xá Lọi Phất nói : 
- Không đúng. Huyễn hóa không có tướng nhứt định còn phải chuyển đổi gì nữa

Thiên nữ nói : 
- Tất cả pháp cũng như thế, không có tướng nhứt định, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ ? 

Tức thời Thiên nữ dùng sức thần thông biến Ngài Xá Lợi Phất thành ra Thiên nữ, Thiên nữ lại tự hóa mình giống như Ngài Xá Lợi Phất mà hỏi rắng : Tại sao Ngài không chuyển thân nữ đi ? 

Ngài Xá Lợi Phất mang lấy hình tướng thân nữ mà đáp rằng : 
- Ta nay không biết tại sao lại biến thành thân đàn bà này ? 

Thiên nữ nói : 
- Thưa Ngài Xá Lợi Phất ? Nếu Ngài chuyển được thân đàn bà đó, thời tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được. Như Ngài Xá Lợi Phất không phải người nữ mà hiện thân nữ, thời tất cả người nữ cũng lại như thế, tuy là hiện thân nữ mà không phải người nữ đâu. Vì thế, Phật nói : tất cả các pháp không phải đàn ông, không phải đàn bà. 

Bấy giờ Thiên nữ thu nhiếp thần lực, thân Ngài Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất:
- Tướng đàn bà bây giờ ở đâu ? 

Ngài Xá Lợi Phất đáp : 
- Tướng đàn bà không ở đâu, mà ở tất cả. 

Thiên nữ nói : 
- Tất cả pháp lại cũng như thế, không ở đâu mà ở tất cả. Vả lại không ở đâu mà ở tất cả là lời Phật nói. 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ
- Nàng ở nơi đây chết rồi sẽ sanh nơi đâu ? 

Thiên nữ đáp : 
- Phật hóa sanh thế nào, tôi cũng hóa sanh thế ấy. 

Ngài Xá Lợi Phất nói : 
- Phật hóa sanh không phải chết rồi mới sanh. 

Thiên nữ nói : 
- Chúng sanh cũng thế, không phải chết rồi mới sanh. 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ
- Ngươi bao lâu sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

Thiên nữ đáp : 
- Khi nào Ngải Xá Lợi Phất trở lại phàm phu, tôi sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

Ngài Xá Lợi Phất nói : 
- Có khi nào ta trở lại phàm phu

Thiên nữ nói : 
- Có khi nào tôi lại được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao? – Vì Bồ Đề không xứ sở nên không có được. 

Ngài Xá Lợi Phất nói : 
- Hiện nay các Phật chứng Bồ Đế vô thượng (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề), các Phật đã chứng, sẽ chứng nhiều như số cát sông Hằng thời gọi là gì ? 

Thiên nữ đáp : 
- Đấy là theo số mục văn tự ở đời mà nói có 3 đời, chớ không phải nói Bồ Đềquá khứ, vị laihiện tại
- Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Ngài đặng đạo A la hán ư ? 

Đáp : Không có đặng mà đặng. 
Thiên nữ nói : 
Các Phật, Bồ Tát cũng như thế, không đặng mà đặng. 

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo ngài Xá Lợi Phất
- Thiên nữ này đã từng cúng dường 92 ức Đức Phật, đã được thần thông du hý của Bồ Tát, nguyện lực đầy đủ, chứng vô sanh nhẫn không có thối lui, vì theo bổn nguyện nên tùy ýhiện ra để giáo hóa chúng sanh

Chú thích của phẩm VII

1. Chúng sanh : Có ba nghĩa : 
1) Tất cả loài có sự sống đều gọi là chúng sanh, như các loài động vậtthực vật, hữu tình và vô tình. 
2) Chúng có nghĩa là rất nhiều ; Sanh nghĩa là sanh khởi : do năm ấm, các duyên hòa hợp thành những vật có sự sống tương tục, gọi là chúng sanh
3) Trải qua nhiều phen sống chết luân hồi trong cảnh giới các loài hữu tình

2. Đại thứ năm : Là vật không có. Chỉ có 4 đại : Địa, Thủy, Hỏa, Phong. 

3. Ấm thứ sáu : Là vật không có. Chỉ có 5 ấm : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. 

4. Tình thứ bảy : Là vật không có, chỉ có sáu căn tình thức cảm giác là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. 

5. Nhập thứ 13 : Là vật không có, chỉ có 12 nhập là 6 căn xung nhập 6 trần. 

6. Giới thứ 19 : Là vật không có. Chỉ có 18 giới là 6 căn nội giới, 6 trần ngoại giới và 6 thức trung giới. 

7. Sắc thân cõi Vô Sắc : Là vật không có. Cõi Vô Sắc chỉ có 4 ấm : Thọ. tưởng, hành, thức về tâm pháp hợp thành loài hữu tình nơi đó, không có hình chất như cõi Sắc giớiDục giới

8. Thân kiến của Tu đà hoàn : Là việc không có. Tu đà hoàn là quả thứ nhứt trong 4 quả Thánh của Thanh Văn Tiểu thừa ; Tàu dịch là Dự lưu, nghĩa là dự vào giòng Thánh. Bực này đã phá được kiến hoặc (sự thấy biết mê lầm) ở trong 3 cõi, nên không còn quan niệm chấp thân là thật nữa. 

9. Sự nhập thai của A na hàm : Là việc không có. A na hàm là quả thứ ba của Thanh Văn. Tàu dịch là Bất lai, nghĩa là bực này tu hành đã dứt hết chín phẩm tư hoặc (tư tưởng sai lầm) ở Dục giới, nên không còn thọ sanh trở lại cõi Dục nữa. 

10. Tam độc của A la hán : Là việc không có. A la hán là quả thứ tư trong 4 quả Thanh Văn, Tàu dịch là Vô sanh. Bực này đã dứt hết phiền não mê lầm trong 3 cõi, nên không còn 3 thứ độc : Tham, Sân, Si nữa. 

11. Hơi thở ra vào của người nhập Diệt tận định : Là việc không có. Vì người nhập Diệt tận định đã dứt hết hiện hành của 6 thức trước, nên không còn thở nữa. 

12. Thạch nữ : Là người nữ không có sanh con. Nói con của Thạch nữthí dụ cho việc không có, cũng như nói lông rùa sừng thỏ

13. Kiết sử : Các thứ phiền não ràng buộc thân tâm kết thành quả khổ gọi là kiết; đeo đuổi xui dục chúng sanh không ra khỏỉ sanh tử gọi là sử. 
Kiết có 9 món : 
1) Ái kiết : say đắm cảnh ngũ dục không rời. 
2) Nhuế kiết : giận dữ bất bình đối với nghịch cảnh
3) Mạn kiết : kiêu căng ngạo nghễ
4) Vô minh kiết : ngu si mờ ám đối với lẽ chơn chánh. 
5) Kiến kiết : tà kiến không tin nhơn quả
6) Thủ kiết : vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh, và giới pháp sai lầm, làm lắm điều ác. 
7) Nghi kiết : dụ dự không tin chơn lý, không tu hành theo hạnh chơn lý, làm nhiều điều không chơn chánh. 
8) Tật kiết : ghen ghét những bậc hiền đức
9) Xan kiết : keo sẻn không chịu bố thí, lại làm nhiều điều ác. 
Chín điều này ràng buộc chúng sanh trong đường sanh tử, vì nó khiến chúng sanh gây nhiều tội lỗi

Sử có 10 món, tức là 5 món Độn sử và 5 Lợi sử
5 món Độn sử : 1) Tham dục sử, 2) Sân nhuế sử, 3) Vô minh sử, 4) Mạn sử, 5) Nghi sử

5 món Lợi sử : 1) Thân kiến sử, 2) Biên kiến sử, 3) Tà kiến sử, 4) Kiến thủ sử, 5) Giới thủ sử. 
Độn sử do sự chấp đắm mà có. Lợi sử do sự nhận thức sai lầm mà có. Cả hai đều gây nên phiền não xúi dục chúng sanh tạo nghiệp không ra khỏi ba cõi sanh tử

14. Không trụ : Là dịch nghĩa của danh từ : “Vô trụ”. Các pháp toàn không có tự tánh, nên không có chỗ trụ trước, chỉ tùy theo duyên mà sanh khởi, nên gọi là vô trụ. Do vô trụ không có chỗ trụ trước, nên chẳng phải có, chẳng phải không; vì chẳng phải có, không, nên mới làm được cái gốc cho hiện tượng có, không của vạn hữu. Theo ý Ngài Duệ Công thì vô trụ tức là thật tướng, thật tướng tức là tánh không, chỉ là khác tên mà thôi. 

15. Kiết tập : Tập khí phiền não kiết sử

16. Kỳ cựu : Bực tuổi tác lão thành. 

17. Tăng thượng mạn : Tự mình chứa đặng những pháp tăng thượng của bực thánh, chưa chứng quả thánh mà tự xưng là đã đặng chứng, khởi lòng ngã mạn, nên gọi là tăng thượng mạn

18. Ba thừa : Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát

19. Chiêm bặc : Tàu dịch là Kim sắc hoa thọ, hay huỳnh hoa thọ : nghĩa là cây hoa sắc vàng, có mùi hương bay rất xa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15548)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13141)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13572)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12488)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12092)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12898)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12987)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13218)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21338)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143674)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15674)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81283)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19583)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20212)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19240)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15145)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13028)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13132)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48970)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14763)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18586)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16385)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19364)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28038)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22155)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23297)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64775)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33196)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40168)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27317)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74892)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36120)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48981)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31015)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33926)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58816)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46257)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43807)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43217)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45916)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48017)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40447)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43469)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28685)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31879)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28801)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33350)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29116)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60969)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37354)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26827)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42642)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant