Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

12 Tháng Năm 201604:40(Xem: 11598)
Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

KINH TITTHA: NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC NHAU (1)

Dịch từ tiếng Pali: John D. Ireland - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org - Picture-Hình: library.timelesstruths.org
(Tittha Sutta: Sectarians (1) - Translated from the Pali by John D. Ireland)

Kinh Tittha Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

 

Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc (Anathapindika). Vào lúc đó, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng thuộc các giáo phái khác nhau, sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ đã có các quan điểm khác nhau, các niềm tin khác nhau, các ý kiến khác nhau, và họ đã dựa vào sự hỗ trợ của các người khác, đối với các quan điểm khác nhau của họ. Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn khẳng-định, và nắm chặt lấy quan niệm như sau: "Thế giới nầy là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn lại khẳng-định quan niệm ngược lại như sau: "Thế giới nầy không-phải là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số người khác lại khẳng-định quan niệm như sau: "Thế giới nầy là hữu hạn ... Thế giới nầy là vô hạn ... Tâm-linh và thân-xác là giống nhau ... Tâm-linh và thân-xác là khác nhau ... Sau khi chết, Đức Phật (Như Lai) tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật không-tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật vừa tồn-tại, vừa không-tồn-tại; Sau khi chết, Đức Phật vừa-không tồn-tại, vừa-không không-tồn-tại; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Rồi họ bắt đầu gây gỗ, cãi vã, tranh luận, gây thương tổn (về tinh thần) bằng các lời-nói sắc-như-dao-đâm vào người kia: "Giáo Pháp thì phải như thế nầy, Giáo Pháp thì không phải như thế kia! Giáo Pháp thì không phải như thế nầy, Giáo Pháp thì phải như thế kia!"

Trước đó vào buổi sáng, một số Tỳ Kheo, đắp ymang theo áo choàng bên ngoài, họ ôm bình bát, đi bộ vào Xá Vệ để khất thực. Sau khi đi khất thựcXá Vệ, các nhà sư dùng bữa trưa, rồi họ trở về, đi đến gặp Đức Phật, họ đảnh lễ ngài, rồi họ ngồi qua một bên, và họ thưa với Đức Phật như sau: "Bạch Thế Tôn, vào lúc nầy đây, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng của các giáo phái khác nhau, họ sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ có các quan niệm khác nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, giống như người mù, họ không trông thấy gì cả. Họ không biết điều gì có lợi, họ không biết điều gì có hại. Họ không biết điều gì là Giáo Pháp, họ không biết điều gì không phải là Giáo Pháp. Họ không biết điều gì có lợi, và điều gì có hại, họ không biết điều gì là Giới Pháp, và điều gì không phải là Giới Pháp, họ đang gây gỗ với nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'

"Nầy các Tỳ Kheo, vào một kiếp trước đây có một ông vua cũng ở vùng Xá Vệ nầy. Nhà vua đã ra lệnh cho một vị quan (1): 'Nầy hiền khanh, khanh hãy cho tụ họp tất cả các người bị mù từ khi lọt lòng mẹ, ở Xá Vệ đến đây.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, rồi sau đó ông ra lệnh dẫn tất cả những người mù ở Xá Vệ đến triều đình, và ông đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, tất cả các người mù đã được dẫn đến đây rồi.'

"'Nầy hiền khanh, bây giờ khanh hãy dẫn những người mù nầy đi gặp một con voi.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, ông quan liền dẫn các người mù nầy đến gặp một con voi, rồi ông nói với họ. 'Các ông mù ơi, trước mặt các ông là một con voi.'

"Với một số người mù, vị quan đã để tay họ chạm vào đầu voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào tai voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Còn với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào ngà voi ... tương tự như thế, rồi với vòi voi ... thân thể con voi ... chân voi ... phần thân và chân sau con voi ... đuôi voi ... cái chùm ở phía đuôi voi, rồi vị quan nói rằng, 'Đây là con voi.'

"Nầy các Tỳ Kheo, sau đó vị quan mà dẫn người mù đi gặp voi, đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, các người mù đã gặp con voi rồi. Xin mời Bệ Hạ quyết định.' Sau đó, nhà vua đi tới gặp các người mù nầy, rồi hỏi họ rằng, 'Các ông đã gặp con voi chưa?'

"'Tâu Bệ Hạ, chúng tôi đã gặp con voi rồi.'

"'Nầy các ông mù, hãy cho ta biết con voi thì giống như vật gì?'

"Các người mù đã chạm tay vào đầu voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái bình chứa nước.' Các người mù đã chạm tay vào tai voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái rổ để sàng lọc.' Các người mù đã chạm tay vào ngà voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào vòi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cán gắn vào lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào thân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái nhà kho.' Các người mù đã chạm tay vào chân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cột nhà.' Các người mù đã chạm tay vào thân và chân sau voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cối.' Các người mù đã chạm tay vào đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái chày.' Các người mù đã chạm tay vào cái chùm ở phía đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cây chổi.'

"Rồi, các người mù tranh luận rằng 'Con voi thì phải như thế nầy, con voi thì không phải như thế kia! Con voi thì không phải như thế nầy, con voi thì phải như thế kia!' và vì thế, họ đánh nhau, và đấm đá lẫn nhau. Nhà vua khi trông thấy cảnh tượng (ngộ nghĩnh) nầy, nhà vua đã phải phì cười.

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, cũng như thế, họ giống như người mù, họ không trông thấy gì cả ... vì họ nói rằng, 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

Để giúp cho mọi người nhận biết được ý nghĩa quan trọng của bài học nầy, Đức Phật đã nói lên bài kệ như sau, để thức tỉnh mọi người:

Một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn,

tối tăm [như người mù] (2)

Họ khư khư nắm chặt lấy quan-điểm của riêng họ;

Cho nên họ đã cãi cọ, và tranh chấp với nhau

Bởi vì họ chỉ nhìn thấy một góc cạnh của sự vật.

[Người mù, cũng như thế

Họ không nhìn thấy những góc cạnh còn lại của sự vật]

Ghi Chú Của Người Chuyển Ngữ [NCN]:

1) Dựa theo ý của bài kinh nầy, NCN đã chuyển ngữ:

a man là vị quan (thay vì là người đàn ông)

2) Ở phần cuối của bài kinh nầy, trong bài kệ, chữ trong ngoặc [] là lời chú thích của NCN.

Source-Nguồn: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.6.04.irel.html

 

Tittha Sutta: Sectarians (1)
Translated from the Pali by John D. Ireland -
Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org

Thus have I heard. At one time the Lord was staying near Savatthi in the Jeta Wood at Anathapindika's monastery. At that time there were a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they were of various views, of various beliefs, of various opinions, and they relied for their support on their various views. There were some recluses and brahmans who asserted and held this view: "The world is eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some recluses and brahmans who asserted: "The world is not eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some who asserted: "The world is finite... The world is infinite... The life-principle and the body are the same... The life-principle and the body are different... The Tathagata exists beyond death... The Tathagata does not exist beyond death... The Tathagata both exists and does not exist beyond death; The Tathagata neither exists nor does not exist beyond death; only this is true, any other (view) is false." And they lived quarrelsome, disputatious, and wrangling, wounding each other with verbal darts, saying: "Dhamma is like this, Dhamma is not like that! Dhamma is not like this, Dhamma is like that!"

Then a number of bhikkhus, having put on their robes in the forenoon and taken their bowls and outer cloaks, entered Savatthi for almsfood. Having walked in Savatthi for almsfood and returned after the meal, they approached the Lord, prostrated themselves, sat down to one side, and said to the Lord: "At present, revered sir, there are a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they are of various views... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

"The wanderers of other sects, bhikkhus, are blind, unseeing. They do not know what is beneficial, they do not know what is harmful. They do not know what is Dhamma, they do not know what is not Dhamma. Not knowing what is beneficial and what is harmful, not knowing what is Dhamma and what is not Dhamma, they are quarrelsome... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'

"Formerly, bhikkhus, there was a certain king in this very Savatthi. And that king addressed a man: 'Come now, my good man, bring together all those persons in Savatthi who have been blind from birth.'

"'Yes, your majesty,' that man replied, and after detaining all the blind people in Savatthi, he approached the king and said, 'All the blind people in Savatthi have been brought together, your majesty.'

"'Now, my man, show the blind people an elephant.'

"'Very well, your majesty,' the man replied to the king, and he presented an elephant to the blind people, saying, 'This, blind people, is an elephant.'

"To some of the blind people he presented the head of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented an ear of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented a tusk... the trunk... the body... the foot... the hindquarters... the tail... the tuft at the end of the tail, saying, 'This is an elephant.'

"Then, bhikkhus, the man, having shown the elephant to the blind people, went to the king and said, 'The blind people have been shown the elephant, your majesty. Do now what you think is suitable.' Then the king approached those blind people and said, 'Have you been shown the elephant?'

"'Yes, your majesty, we have been shown the elephant.'

"'Tell me, blind people, what is an elephant like?'

"Those blind people who had been shown the head of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a water jar.' Those blind people who had been shown the ear of the elephant replied. "An elephant, your majesty, is just like a winnowing basket.' Those blind people who had been shown the tusk of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plowshare.' Those blind people who had been shown the trunk replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plow pole.' Those blind people who had been shown the body replied, 'An elephant, your majesty, is just like a storeroom.' Those blind people who had been shown the foot replied, 'An elephant, your majesty, is just like a post.' Those blind people who had been shown the hindquarters replied, 'An elephant, your majesty, is just like a mortar.' Those blind people who had been shown the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a pestle.' Those blind people who had been shown the tuft at the end of the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a broom.'

"Saying 'An elephant is like this, an elephant is not like that! An elephant is not like this, an elephant is like that!' they fought each other with their fists. And the king was delighted (with the spectacle).

"Even so, bhikkhus, are those wanderers of various sects blind, unseeing... saying, 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

Then, on realizing its significance, the Lord uttered on that occasion this inspired utterance:

Some recluses and brahmans, so called,

Are deeply attached to their own views;

People who only see one side of things

Engage in quarrels and disputes.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13712)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13114)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13539)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12432)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12043)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12865)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12940)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13161)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21296)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143526)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15635)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81212)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19539)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20141)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19201)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15085)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 12971)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13103)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48904)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14729)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18566)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16368)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19349)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27976)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22144)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23275)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64731)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33167)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40125)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27292)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74839)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36083)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48943)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30989)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33884)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58773)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46229)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43775)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43173)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45863)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47982)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34595)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33418)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52873)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31420)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28659)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31837)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28764)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33307)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29081)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60949)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39689)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29633)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37308)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26809)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42597)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26354)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant