Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

12 Tháng Năm 201604:40(Xem: 11609)
Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

KINH TITTHA: NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC NHAU (1)

Dịch từ tiếng Pali: John D. Ireland - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org - Picture-Hình: library.timelesstruths.org
(Tittha Sutta: Sectarians (1) - Translated from the Pali by John D. Ireland)

Kinh Tittha Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

 

Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc (Anathapindika). Vào lúc đó, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng thuộc các giáo phái khác nhau, sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ đã có các quan điểm khác nhau, các niềm tin khác nhau, các ý kiến khác nhau, và họ đã dựa vào sự hỗ trợ của các người khác, đối với các quan điểm khác nhau của họ. Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn khẳng-định, và nắm chặt lấy quan niệm như sau: "Thế giới nầy là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn lại khẳng-định quan niệm ngược lại như sau: "Thế giới nầy không-phải là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số người khác lại khẳng-định quan niệm như sau: "Thế giới nầy là hữu hạn ... Thế giới nầy là vô hạn ... Tâm-linh và thân-xác là giống nhau ... Tâm-linh và thân-xác là khác nhau ... Sau khi chết, Đức Phật (Như Lai) tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật không-tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật vừa tồn-tại, vừa không-tồn-tại; Sau khi chết, Đức Phật vừa-không tồn-tại, vừa-không không-tồn-tại; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Rồi họ bắt đầu gây gỗ, cãi vã, tranh luận, gây thương tổn (về tinh thần) bằng các lời-nói sắc-như-dao-đâm vào người kia: "Giáo Pháp thì phải như thế nầy, Giáo Pháp thì không phải như thế kia! Giáo Pháp thì không phải như thế nầy, Giáo Pháp thì phải như thế kia!"

Trước đó vào buổi sáng, một số Tỳ Kheo, đắp ymang theo áo choàng bên ngoài, họ ôm bình bát, đi bộ vào Xá Vệ để khất thực. Sau khi đi khất thựcXá Vệ, các nhà sư dùng bữa trưa, rồi họ trở về, đi đến gặp Đức Phật, họ đảnh lễ ngài, rồi họ ngồi qua một bên, và họ thưa với Đức Phật như sau: "Bạch Thế Tôn, vào lúc nầy đây, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng của các giáo phái khác nhau, họ sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ có các quan niệm khác nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, giống như người mù, họ không trông thấy gì cả. Họ không biết điều gì có lợi, họ không biết điều gì có hại. Họ không biết điều gì là Giáo Pháp, họ không biết điều gì không phải là Giáo Pháp. Họ không biết điều gì có lợi, và điều gì có hại, họ không biết điều gì là Giới Pháp, và điều gì không phải là Giới Pháp, họ đang gây gỗ với nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'

"Nầy các Tỳ Kheo, vào một kiếp trước đây có một ông vua cũng ở vùng Xá Vệ nầy. Nhà vua đã ra lệnh cho một vị quan (1): 'Nầy hiền khanh, khanh hãy cho tụ họp tất cả các người bị mù từ khi lọt lòng mẹ, ở Xá Vệ đến đây.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, rồi sau đó ông ra lệnh dẫn tất cả những người mù ở Xá Vệ đến triều đình, và ông đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, tất cả các người mù đã được dẫn đến đây rồi.'

"'Nầy hiền khanh, bây giờ khanh hãy dẫn những người mù nầy đi gặp một con voi.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, ông quan liền dẫn các người mù nầy đến gặp một con voi, rồi ông nói với họ. 'Các ông mù ơi, trước mặt các ông là một con voi.'

"Với một số người mù, vị quan đã để tay họ chạm vào đầu voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào tai voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Còn với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào ngà voi ... tương tự như thế, rồi với vòi voi ... thân thể con voi ... chân voi ... phần thân và chân sau con voi ... đuôi voi ... cái chùm ở phía đuôi voi, rồi vị quan nói rằng, 'Đây là con voi.'

"Nầy các Tỳ Kheo, sau đó vị quan mà dẫn người mù đi gặp voi, đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, các người mù đã gặp con voi rồi. Xin mời Bệ Hạ quyết định.' Sau đó, nhà vua đi tới gặp các người mù nầy, rồi hỏi họ rằng, 'Các ông đã gặp con voi chưa?'

"'Tâu Bệ Hạ, chúng tôi đã gặp con voi rồi.'

"'Nầy các ông mù, hãy cho ta biết con voi thì giống như vật gì?'

"Các người mù đã chạm tay vào đầu voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái bình chứa nước.' Các người mù đã chạm tay vào tai voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái rổ để sàng lọc.' Các người mù đã chạm tay vào ngà voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào vòi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cán gắn vào lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào thân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái nhà kho.' Các người mù đã chạm tay vào chân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cột nhà.' Các người mù đã chạm tay vào thân và chân sau voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cối.' Các người mù đã chạm tay vào đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái chày.' Các người mù đã chạm tay vào cái chùm ở phía đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cây chổi.'

"Rồi, các người mù tranh luận rằng 'Con voi thì phải như thế nầy, con voi thì không phải như thế kia! Con voi thì không phải như thế nầy, con voi thì phải như thế kia!' và vì thế, họ đánh nhau, và đấm đá lẫn nhau. Nhà vua khi trông thấy cảnh tượng (ngộ nghĩnh) nầy, nhà vua đã phải phì cười.

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, cũng như thế, họ giống như người mù, họ không trông thấy gì cả ... vì họ nói rằng, 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

Để giúp cho mọi người nhận biết được ý nghĩa quan trọng của bài học nầy, Đức Phật đã nói lên bài kệ như sau, để thức tỉnh mọi người:

Một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn,

tối tăm [như người mù] (2)

Họ khư khư nắm chặt lấy quan-điểm của riêng họ;

Cho nên họ đã cãi cọ, và tranh chấp với nhau

Bởi vì họ chỉ nhìn thấy một góc cạnh của sự vật.

[Người mù, cũng như thế

Họ không nhìn thấy những góc cạnh còn lại của sự vật]

Ghi Chú Của Người Chuyển Ngữ [NCN]:

1) Dựa theo ý của bài kinh nầy, NCN đã chuyển ngữ:

a man là vị quan (thay vì là người đàn ông)

2) Ở phần cuối của bài kinh nầy, trong bài kệ, chữ trong ngoặc [] là lời chú thích của NCN.

Source-Nguồn: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.6.04.irel.html

 

Tittha Sutta: Sectarians (1)
Translated from the Pali by John D. Ireland -
Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org

Thus have I heard. At one time the Lord was staying near Savatthi in the Jeta Wood at Anathapindika's monastery. At that time there were a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they were of various views, of various beliefs, of various opinions, and they relied for their support on their various views. There were some recluses and brahmans who asserted and held this view: "The world is eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some recluses and brahmans who asserted: "The world is not eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some who asserted: "The world is finite... The world is infinite... The life-principle and the body are the same... The life-principle and the body are different... The Tathagata exists beyond death... The Tathagata does not exist beyond death... The Tathagata both exists and does not exist beyond death; The Tathagata neither exists nor does not exist beyond death; only this is true, any other (view) is false." And they lived quarrelsome, disputatious, and wrangling, wounding each other with verbal darts, saying: "Dhamma is like this, Dhamma is not like that! Dhamma is not like this, Dhamma is like that!"

Then a number of bhikkhus, having put on their robes in the forenoon and taken their bowls and outer cloaks, entered Savatthi for almsfood. Having walked in Savatthi for almsfood and returned after the meal, they approached the Lord, prostrated themselves, sat down to one side, and said to the Lord: "At present, revered sir, there are a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they are of various views... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

"The wanderers of other sects, bhikkhus, are blind, unseeing. They do not know what is beneficial, they do not know what is harmful. They do not know what is Dhamma, they do not know what is not Dhamma. Not knowing what is beneficial and what is harmful, not knowing what is Dhamma and what is not Dhamma, they are quarrelsome... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'

"Formerly, bhikkhus, there was a certain king in this very Savatthi. And that king addressed a man: 'Come now, my good man, bring together all those persons in Savatthi who have been blind from birth.'

"'Yes, your majesty,' that man replied, and after detaining all the blind people in Savatthi, he approached the king and said, 'All the blind people in Savatthi have been brought together, your majesty.'

"'Now, my man, show the blind people an elephant.'

"'Very well, your majesty,' the man replied to the king, and he presented an elephant to the blind people, saying, 'This, blind people, is an elephant.'

"To some of the blind people he presented the head of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented an ear of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented a tusk... the trunk... the body... the foot... the hindquarters... the tail... the tuft at the end of the tail, saying, 'This is an elephant.'

"Then, bhikkhus, the man, having shown the elephant to the blind people, went to the king and said, 'The blind people have been shown the elephant, your majesty. Do now what you think is suitable.' Then the king approached those blind people and said, 'Have you been shown the elephant?'

"'Yes, your majesty, we have been shown the elephant.'

"'Tell me, blind people, what is an elephant like?'

"Those blind people who had been shown the head of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a water jar.' Those blind people who had been shown the ear of the elephant replied. "An elephant, your majesty, is just like a winnowing basket.' Those blind people who had been shown the tusk of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plowshare.' Those blind people who had been shown the trunk replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plow pole.' Those blind people who had been shown the body replied, 'An elephant, your majesty, is just like a storeroom.' Those blind people who had been shown the foot replied, 'An elephant, your majesty, is just like a post.' Those blind people who had been shown the hindquarters replied, 'An elephant, your majesty, is just like a mortar.' Those blind people who had been shown the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a pestle.' Those blind people who had been shown the tuft at the end of the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a broom.'

"Saying 'An elephant is like this, an elephant is not like that! An elephant is not like this, an elephant is like that!' they fought each other with their fists. And the king was delighted (with the spectacle).

"Even so, bhikkhus, are those wanderers of various sects blind, unseeing... saying, 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

Then, on realizing its significance, the Lord uttered on that occasion this inspired utterance:

Some recluses and brahmans, so called,

Are deeply attached to their own views;

People who only see one side of things

Engage in quarrels and disputes.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30438)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 27673)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 29975)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 22980)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 30584)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31205)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37094)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32237)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27078)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 30034)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23107)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22301)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 30857)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41484)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 24941)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23652)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25276)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 58620)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 20849)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28868)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 28589)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 23917)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 24803)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 61771)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 22085)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 23932)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41177)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 33149)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 25725)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 31260)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38508)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21401)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44212)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 42133)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45689)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32070)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23935)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27652)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26693)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 22630)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 30276)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 44196)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35489)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 20662)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24746)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37882)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 32589)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43117)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant