Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Akkosa: Sự Nhục Mạ

14 Tháng Sáu 201907:55(Xem: 11637)
Kinh Akkosa: Sự Nhục Mạ

KINH AKKOSA: SỰ NHỤC MẠ 
Akkosa Sutta: Insult 

Translated from the Pali by Acharya Buddharakkhita - 
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 
Source-Nguồn: accesstoinsight.org

 
Kinh Akkosa

Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau: "Bà La Môn Bharadvaja, dường như, đã trở thành một nhà sư tu theo Đại Sư Gotama (Cồ Đàm)." Tức giận và không vui, ông ta đi đến nơi Đức Thế Tôn ở. Sau khi đến gần Đức Thế Tôn, ông ta đã chỉ trích, và đối xử tàn nhẫn với Đức Thế Tôn bằng những lời lẽ thô tục và hung ác. Bị mắng chửi như vậy, Đức Thế Tôn nói với vị Bà La Môn Akkosa Bharadvaja như sau: 'Nầy Bà La Môn, ông có nhiều bạn bè, nhiều người bạn thân, nhiều người thân thuộc, nhiều bà con và khách đến thăm viếng ông hay không? "

"Có chứ, Thầy Gotama, đôi khi tôi có nhiều bạn bè, nhiều người bạn thân, nhiều người thân thuộc, nhiều bà con và khách đến thăm viếng tôi."

"Nầy Bà La Môn, ông có dọn cho họ những thức ăn nhẹ, hoặc thức ăn (đúng bữa), hoặc món khai vị hay không?"

"Có chứ, Thầy Gotama, đôi khi tôi dọn cho họ những thức ăn nhẹ, hoặc thức ăn (đúng bữa), hoặc món khai vị."

"Nầy Bà La Môn, tuy nhiên, nếu như họ không chấp nhận các thức ăn đó, ai là người sẽ nhận nó?"

 "Thầy Gotama, nếu như họ không chấp nhận, tôi sẽ nhận lại các thức ăn đó."

"Cũng như thế, nầy Bà La Môn, ông đang đối xử tàn nhẫn với chúng tôi, những người mà không đối xử tàn nhẫn với ai cả, ông đang giận dữ chúng tôi, những người mà không giận dữ ai cả, ông đang gây tranh cãi với chúng tôi, những người mà không tranh cãi với ai cả. Tất cả những thứ ông làm, chúng tôi đều không chấp nhận. Nầy Bà La Môn, một mình ông hãy đem về hết; nầy Bà La Môn, vì tất cả những thứ nầy đều thuộc về ông.

"Nầy Bà La Môn, khi một người đối xử tàn nhẫn (ngược lại) vì họ đã bị người kia đối xử tàn nhẫn, giận dữ (ngược lại) vì họ đã bị người kia chọc giận, và tranh cãi (ngược lại) vì họ đã bị người kia gây tranh cãi, nầy Bà La Môn, chuyện này được gọi là trao đổi lẫn nhau, và liên hệ lẫn nhau. Sự trao đổi và sự liên hệ lẫn nhau nầy, chúng tôi không muốn tham dự. Vì thế, nầy Bà La Môn, (tất cả những thứ ông làm,) một mình ông hãy đem về hết; nầy Bà La Môn, vì tất cả những thứ nầy đều thuộc về ông."

"Mọi người, kể cả nhà vua, đều biết đến Hòa Thượng Gotama: 'Vị Đại Sư Gotama là Bậc Giác Ngộ Xứng Đáng Được Cúng Dường'. Vì thế, có khi nào mà Hòa thượng Gotama lại trở nên tức giận hay không?"

Sau đó, Đức Phật nói rằng:

"Sự giận dữ ở nơi đâu? Đối với một người không còn sự giận dữ,

Đối với một người sống hiền lành, có tâm hoàn toàn thanh thảnbình an,

Đối với một người thật sự hiểu biết, có tâm hoàn toàn giải thoát,

Đối với một người vô cùng điềm tĩnh, có tâm luôn ở trạng thái thăng bằng;  

Nếu người nào giận dữ (ngược lại) vì họ đã bị người kia chọc giận,

Thì ông ta còn tồi tệ hơn là người chọc giận kia;

Nếu người nào không giận dữ (ngược lại) vì họ đã bị người kia chọc giận,

Thì một mình ông ta là người chiến thắng một trận chiến khó thắng.

Ông ta khuyến khích sự an toàn và sự quan tâm của cả hai phía,

Phía của ông, cũng như phía của người kia.

Ông ta biết rằng người kia đang giận dữ;

Với tâm tỉnh thức, ông ta duy trì sự bình yên,

Và ông chịu đựng sự giận dữ của cả hai phía,

Phía của ông, cũng như phía của người kia.

Dù cho, có những kẻ si mê vì thiếu trí tuệ,

Họ xem ông là một người ngu ngốc, qua cái nhìn của họ."

Sau khi Đức Thế Tôn giảng dạy các câu trên, vị Bà La Môn Akkosa Bharadvaja trả lời Đức Thế Tôn: "Thật là tuyệt vời, quả thật như thế, Hòa thượng Gotama! Phút nầy đây, con xin quy y Hòa Thượng Gotama, quy y Giáo Pháp của ngài, và quy y Tăng Đoàn của ngài. Kính thưa Hòa Thượng, qua hai bàn tay tôn kính của Đức Thế Tôn Gotama, xin ngài cho con đặc ân được làm lễ xuất gia với các giới ban đầu (Sa-di), và cũng nhận thêm giới cao hơn của một vị Tỳ Kheo."

Và vị Bà La Môn Akkosa Bharadvaja, qua hai bàn tay của Đức Thế Tôn, đã được làm lễ xuất gia với các giới ban đầu (Sa-di), và ông ta cũng nhận thêm giới cao hơn của một vị Tỳ Kheo. Và trong một thời gian ngắn xuất gia, Đại Đức Akkosa Bharadvaja, sống một mình, tách biệt, siêng năng, hăng hái, và quyết tâm, ông đã đạt được sự hoàn thiện cao quý không có gì so sánh được của một nhà sư trong Tăng Đoàn (của những người con trai sống trong các gia đình cao quý), đã hoàn toàn từ bỏ đời sống gia đình, và sống đời vô gia cư. Qua sự hiểu biết trực tiếp, ông nhận ra chân lý tột cùng, và ngay lập tức, ông sống được với sự hiểu biết nầy. Ông nhìn thấy qua "thiên nhãn thông" của mình: "Chấm dứt sự tái sinh, đã sống cuộc đời cao quý, đã hoàn thành các nhiệm vụ tâm linh, và từ nay trở đi chẳng còn gì (cao quý hơn) để đạt được nữa."

Đại Đức Akkosa Bharadvaja, thật sự, đã trở thành một trong số những vị A La Hán

____________________

 Akkosa Sutta: Insult 
Translated from the Pali by Acharya Buddharakkhita 
Source-Nguồn: accesstoinsight.org
 

Once the Blessed One was staying at Rajagaha in the Bamboo Grove near the Squirrels' Feeding Place. Now the brahman Akkosa Bharadvaja heard this: "The brahman Bharadvaja, it seems, has become a monk under the Great Monk Gotama." Angry and unhappy, he went to where the Blessed One was. Having approached the Blessed One, he abused and criticized the Blessed One in foul and harsh words. Thus reviled, the Blessed One spoke to the brahman Akkosa Bharadvaja: 'Well, brahman, do friends, confidants, relatives, kinsmen and guests visit you?"

 

"Yes, Gotama, sometimes friends, confidants, relatives, kinsmen and guests do visit me."

 

"Well, brahman, do you not offer them snacks or food or tidbits?"

 

"Yes, Gotama, sometimes I do offer them snacks or food or tidbits."

 

"But if, brahman, they do not accept it, who gets it?"

 

"If Gotama, they do not accept it, I get it back."

 

"Even so, brahman, you are abusing us who do not abuse, you are angry with us who do not get angry, you are quarreling with us who do not quarrel. All this of yours we don't accept. You alone, brahman, get it back; all this, brahman, belongs to you.

 

"When, brahman, one abuses back when abused, repays anger in kind, and quarrels back when quarreled with, this is called, brahman, associating with each other and exchanging mutually. This association and mutual exchange we do not engage in. Therefore you alone, brahman, get it back; all this, brahman, belongs to you."

 

"People, including the king, know the Venerable Gotama thus: 'The Monk Gotama is the Worthy One.' When does the Venerable Gotama become angry?"

 

Said the Buddha:

 

"Where is anger for one freed from anger,

Who is subdued and lives perfectly equanimous,

Who truly knowing is wholly freed,

Supremely tranquil and equipoised?

He who repays an angry man in kind

Is worse than the angry man;

Who does not repay anger in kind,

He alone wins the battle hard to win.

He promotes the weal of both,

His own, as well as of the other.

Knowing that the other man is angry,

He mindfully maintains his peace

And endures the anger of both,

His own, as well as of the other,

Even if the people ignorant of true wisdom

Consider him a fool thereby."

 

When the Lord proclaimed this, the brahman Akkosa Bharadvaja said this to the Blessed One: "Wonderful, indeed, O Venerable Gotama! Herewith I go to the Venerable Gotama for refuge, to his Teaching and to his Holy Order of Monks. Most venerable sir, may I have the privilege to receive at the hands of the revered Lord Gotama the initial monastic ordination and also the higher ordination of a bhikkhu."

 

And the brahman Akkosa Bharadvaja received at the hands of the Blessed One the initial monastic ordination and he also received the higher ordination of a bhikkhu. And within a short time of his ordination, the Venerable Akkosa Bharadvaja, living alone, secluded, diligent, zealous and unrelenting, reached that incomparable consummation of holiness for which sons of noble families, having totally abandoned the household life, take to the life of homelessness. With direct knowledge he realized the ultimate, then and there, and lived having access to it. He saw with his supernormal vision: "Ceased is rebirth, lived is the holy life, completed is the spiritual task and henceforth there is nothing higher to be achieved."

 

The Venerable Akkosa Bharadvaja, indeed, became one of the Arahats.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11767)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11745)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12353)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12398)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19840)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12002)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16902)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12688)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16137)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12902)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11936)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11941)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13167)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13242)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12509)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19875)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11175)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10413)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11109)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11764)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12079)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28831)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12201)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15075)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant