Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí Tuệ Khởi Sinh Mọi Hạnh Lành Bản Kinh Văn Về Hai Giai Đoạn Thiền Quán Duyên Khởi

25 Tháng Hai 202119:24(Xem: 3799)
Trí Tuệ Khởi Sinh Mọi Hạnh Lành Bản Kinh Văn Về Hai Giai Đoạn Thiền Quán Duyên Khởi

Trí Tuệ Khởi Sinh Mọi Hạnh Lành Bản Kinh Văn Về
Hai Giai Đoạn Thiền Quán Duyên Khởi


La Sơn Phúc Cường

Chuyển Kiếp Duyên Trần

 

Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết. Một trong những di sản đồ sộ mà ngài để lại là bộ luận Một Trăm Ngàn Từ. Đây là bộ luận bàn về nhiều nội dung rộng lớn như: vũ trụ học Phật giáo, luận lý, Lô-gic, mối quan hệ giữa Hiển giáoMật giáo v.v…Bộ luận này hiện vẫn là sách giáo trình trong nhiều tự viện và trường học Phật giáo hệ Tạng truyền. Một trong những hậu thân của tổ Khunkhen Pema Karpo là ngài Ngawang Namgyal Rinpoche đã thành lập nên vương quốc Bhutan, thiết lập hệ thống tu học Phật giáo tại đây. Bộ luận Một Trăm Ngàn Từ từ thời ngài Ngawang Namgyal Rinpoche thế kỷ thứ 17 tới nay, vẫn là sách giáo trình tại các tự viện và trường học Phật giáo, đồng thờichỉ dẫn cho sự hành thiền thường thật và nhập thất dài hạn cho các hành giả Phật giáo tại vương quốc Bhutan. (1) Bài viết này chỉ lược một đề mục trong bộ luận giới thiệu thiền quán về Duyên khởi để nuôi dưỡng từ bitrí tuệ Tính không.

Đề mục này gồm hai phần, thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.

Thiền quán về Duyên Khởi Tính Không

Ở nơi thâm sơn tràn đầy hỷ lạc, rời xa chốn thành thị đầy xao nhãng, bỏ lại những nguồn thị phi, tham ái,tránh năm chướng ngại và mười bất thiện, an tọa trên tọa cụ trong tư thế liên hoa. Hai tay dưới rốn trong ấn thiền định, lưng thẳng, vai mở, cằm hơi nghiêng phía cổ, lưỡi chạm hàm trên, mắt nhìn thẳng đầu sống mũi, trong tư thế của đức Tỳ Lô Giá Na. Thở ra một hơi nhẹ và dài, rồi hít thở vào một cách tự nhiên.

Tiếp tới khởi dòng tâm nguyện như sau: “Vì lợi ích giải thoát cho tất thảy chúng sinh, nguyện con viên mãn Bồ đề tâm tối thượng.” Sau đó tiếp tục thiền quán phía trước trên đỉnh đầu là đức Phật Thích Ca. Sắc thân ngài rực rỡ ánh vàng với ba mươi hai tướng hảo và 80 vẻ đẹp tùy hình. Tay ngài trong thế ân xúc địa, ngài đắp Y vàng rực rỡkết già trên bảo tòa hoa sen. Tiếp tới hãy nhất tâm và tha thiết cầu nguyện tới các bậc tổ dòng truyền thừa

Tiếp tới an trụ trong trạng thái tâm không còn vọng tưởng về quá  khứ (ví như: Đừng để tâm hiện khởi các tư tưởng như trước đây mình đã nỗ lực thực hành nên bây giờ được ân hưởng trạng thái tốt lành này, rồi thì điều  này, điều kia từng diễn ra v.v….), đừng hướng tới tương lai (ví như: giờ đầy mình đang nỗ lực thực hành pháp bảo thiêng liêng này, trong tương lai mình sẽ được quả ngọt này kia v.v…). Và cũng đừng để tâm tư duy hay phân tích mọi hiện tướng trước mặt và trong tâm (như thứ này là lợi ích, thứ kia là xấu ác, thứ này là đúng đắn, thứ kia là lầm sai.” Đừng để tâm bị chi phối bởi những định kiến như: “Thứ này phải thế này, điều này phải thế kia!” Đừng đơn giản bị quan kiến hư vô phủ định sự tồn tại của mọi sắc tướng chi phối: “Ồ, mọi thứ đâu có gì, chỉ là mộng huyễn mà thôi!” và cũng đừng giả trang thiền tướng, hư vọng về Tính không hay đặt danh, khái niệm cho tính không bằng các tư tưởng: “Ồ, đây chính là trí tuệ Tính không. Đây chính là tâm chân thật!”

Nếu như thế thì hành giả thiền quán ra sao? Nếu không đặt danh, khái niệm hóa mọi đối tượng, nếu không định tâm nơi một hình sắc? Hãy buông xả mọi định kiến, tư tưởng và chỉ đơn giản để tâm an trụ trong cảnh giới bình đẳngvô niệm. Tổ Tsangpa Gyare đã dạy: “Tâm, không xáo động, là an nhiên. Nước, không khuấy động, là tinh khiết.”(2) Tổ Saraha đã dạy: Hãy để tâm thư thái, chẳng có gì cần thêm bớt, chẳng có gì cần làm cho sạch trong.

phương diện các sắc tướng, chúng hiện khởi và vẫn đang tồn tại. Nhưng vì tồn tại do duyên giả hợp nên khi ta không thể truy tìm được tự tính cố hữu của chúng. Chúng tới từ hư không và tan biến thành hư không. Có một hành giả đang lắng nghe, suy tư chân lý nhưng cũng chẳng thể tìm được tự tính cố hữu của hành giả này. Ở phương diện thực hành, người thực hành hãy cứ để tâm tĩnh tại và tỉnh giác về mọi sắc tướng đang hiện khởi và vận hành. Miễn là biết tỉnh giác về chúng, thì chúng sẽ luôn được tự do trong bản chất vốn có của mình.Không có sự tách rời giữa đối tượng tỉnh giác và  người tỉnh thức; đối tượng và chủ thể là bất khả phân. Đó là sự hợp nhất bất nhị của tỉnh thứctính không.

Quá cứng nhắc nếu cố ép mình vào chính niệm và sẽ chỉ làm các dòng tư tưởng mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Nhưng nếu buông lung, người thực hành sẽ bị sự hấp dẫn các giác quan làm lạc lối. Bởi vậy phải cột phàm tâm bằng sự an địnhtỉnh giác, khi ấy những phân biệt nhị nguyên tốt hay xấu, thiện hay ác, Niết bàn hay luân hồi sẽ không còn nền tảng kiến cố và dần tan biến vào hư không. Đây là trạng thái không thể dùng ngôn từ để mô tả mà mỗi hành giả cần phải tự mình trực tiếp chứng nghiệm.

Bản chất tâm chân thật của chúng ta không giống như trong tư duy luôn định hình các khái niệm, tri thức, định kiến phân biệt, mà là một thực tại rộng lớn không phụ thuộc vào không gian, vị trí hay bất kỳ đối tượng cụ thể nào. Nó là một tâm tỉnh thức rộng mở tới vô cùng, hiện diện ở khắp mọi nơi nhưng không phụ thuộc vào một nơi chốn cố định. Nó được ví như bầu trời rộng lớn, vốn sẵn có và thấm đẫm nơi thân, khẩu và ý của ta, thân thuộc tới đến nỗi chúng ta không bao giờ ngừng đặt câu hỏi về nó hay mong muốn nhận biết về nó. Bởi vì bản tâm chân thật hiện diện ở khắp mọi ngõ ngách trong đời sống của chúng ta như không khí ta đang hít thở, nên chúng ta vẫn luôn nghe thấy, chạm thấy và cảm thấy nó ở mọi nơi, mọi lúc. . Hình ảnh tâm bản lai được ví như bầu trời rộng lớn không bờ mé và các đại dương vô tận, các kinh văn luôn có lời kệ cầu nguyện tới vô lượng vô tận, mặc dù tâm bản lai rộng lớn hơn vô cùng so với bầu trời và tất cả đại dương cộng lại.

Giai đoạn hậu Thiền: viên mãn công hạnh giải thoát

Nếu như khi đang trong trạng thái hành thiền, tâm chưa thể tĩnh tại dài lâu, mà đôi khi lại xao nhãng, hãy tức thì nhận ra và thư giãn, không phản ứng hay ngụy tạo. dòng tâm khuấy động sẽ được an tĩnh ngay tại nơi chúng đang hiện diện, hòa nhập làm một, như nước rót vào nước. Hãy cứ để chúng như vậy, đừng phản ứng hay chối bỏ các dòng tâm phiền não dữ dội khi chúng hiện khởi. Đừng để chúng chi phối cũng đừng cố tìm cách đối trị chúng. Chúng ta chỉ cần nhận ra chúng đang hiện khởi và vận hành và thư giãn nơi chúng. Đây chỉ là cách các dòng phiền não tự hiện khởi và tan biến vào hư không.

Tổ Pagmodrupa đã dạy: “Ngay cả khi các tư tưởng hiện khởi, hãy đừng sợ hãi chúng. Bởi vì chúng là bản chất tự nhiên từ tâm bản nhiên thuần tịnh, chúng tới, rồi đi, tự nhiên không ngăn ngại, giống như mặt trời mọc rồi lặn.”(3)

Tổ Milarepa đã viết: “Khi đang an trụ trong bản tâm, các dòng tư tưởng hiện khởi chính là sự hiển bày diệu kỳ của dòng tâm.”

Trong Mật điển Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana) có dạy: “Khi an trụ trong vô niệm, bầu trời quang minh rực rỡ sẽ hiện khởi”. Trong Sambhuti viết: “Tự các dòng tư tưởng tịnh hóa các dòng tư tưởng.”(4)

Như vậy, trong sự hành trì này, coi các dòng tư tưởng hiện khởi là chất liệu của con đường, trước hết người thực hành học cách tỉnh giác trước mọi hiện khởi trong tâm. Tiếp tới, duy trì và phát triển năng lực của sự tỉnh giác. Rèn luyện để không phản ứng  hay bám chấp mà biết hòa hợp, để cho mọi hiện tướng tự hiện khởi và tự do như chúng vốn đang là. Phương pháp hành thiền này được gọi là hợp nhất Sắc tướng và Tính không hay Chân không Diệu hữu.

Đức Saraha đã dạy: “Ở phía trước, phía sau và khắp thảy mười phương, mọi sắc tướng đều là hóa hiện của chân không. Khi hòa nhập với bản tâm tối thượng, không còn phải nỗ lực, không phải tìm cầu. Mọi lời trì tụng, mọi pháp hành thiền, tất thảy luận điển cũng chỉ nhằm một pháp vị này.”

Khi đã thể nhập bản chất Chân không Diệu hữu của vạn pháp, luân hồiniết bàn, tư tưởngtính không, phiền nãotrí tuệ, tất cả đều hợp nhất trong một bản thể  trong sáng, rực rỡ và rộng lớn vô bờ mé. Tiếp tới có thể lặng lẽ đứng dạy. Một khi tâm thức đã hòa nhập bản chất Tính không, hãy thực hành các thiện hạnh của thân, khẩu và ý càng nhiều càng tốt. Nếu trí tuệ Tính không không làm khởi phát và tăng trưởng từ bi tâm, sự nhẫn nại cùng tinh tiến thì cách thực hành đó không được coi là con đường đạo chân chính. Bởi vậy tâm từ, tâm bi và tâm Bồ đề cần phải được rèn luyện đồng thời và hợp nhất khi hành thiền về trí tuệ Tính không. Trong khi tâm thức đang an trụ trong bản chất trí tuệ Tính không, hãy khởi dòng tâm như sau: “Mong nguyện cho tất thảy chúng sinh có được niềm an lạc đích thực. Niềm an lạc đích thực ở đây có nghĩa là sự thành tựu tới quả Bồ đề viên tròn.”

Hãy để từ bi tràn ngập khắp dòng tâmkhởi tâm nguyện như sau: “Mong nguyện hết thảy chúng sinh tích lũy viên mãn nhị tư tương, để viên mãn quả Bồ đề tâm tối thượng.”

Tiếp tới hãy khởi dòng tâm từ bi như sau: Mong nguyện tất thảy chúng sinh được tự do khỏi những khổ đau khôn cùng của ba cõi tử sinh.” Và “Mong nguyện họ biết tận trừ những nhân của luân  hồi, là những phiền nãotri kiến lầm sai.”

Tiếp tới hãy thiền quán những tia sáng rực rỡ theo hơi thở từ mũi phải của mình tuôn tràn tới mũi phải của tất thảy chúng sinh, hãy khởi dòng tư tưởng rằng tất cả khó khăn, chướng ngại của chúng sinh sẽ theo ánh sáng trở lại mũi phải của mình và nguyện: “Xin nhận mọi khó khăn, chướng ngại của chúng sinh và mong khổ đau của họ được tận trừ.” Tiếp tới hãy gửi tất cả những niềm an lạc theo hơi thở từ mũi trái trong hình thức ánh sáng rực rỡ lan tỏa tới tất thảy chúng sinh. Khởi dòng tư tưởng rằng: “Mình đang trao tặng mọi niềm an vui tới cho chúng sinh và họ đang thực sự được ân hưởng niềm an vui đó.” Khi biết thiền quán mình đang nhận thay những khó khăn, chướng ngại của chúng sinh, thực chất có nghĩa bạn đang ở trạng thái tâm hỷ lạc to lớn. Nếu người thực hành có thể viên mãn được tâm nguyện này, có nghĩa họ đang rèn luyện một cách trực tiếp nhất Bồ Đề tâm cao quý.

Sau khi thiền quán như vậy, hãy khởi nghĩ dòng tâm như sau: “Nương năng lực pháp thiền quán này, cùng tất thảy công đức tích lũy được, xin nguyện cho con và tất thảy hữu tình cùng thoát khởi bể khổ luân hồi và đạt tới quả vị Phật rốt ráo.”

Bản kinh văn này Những Khai thị tâm yếu về các giai tầng thiền quánDuyên Khởi được trước tác bởi ngài Khunkhen Pema Karpo, dựa theo các pháp bảo của thày tổ mình là ngài Pagmodrupa. Mong rằng những lời giáo pháp này được trải rộng, mang lại lợi ích giải thoát cho hữu tình.

  1. Chương trình tu học tại các tự viên Bhutan, Tạp chí nghiên cứu Phật học, tháng 07, 2020.
  2. i.e., Tsangpa Gyare Yeshe Dorje (gtsang pa rgya ras ye shes rdo rje), 1161–1211
  3. i.e., Pagmodrupa Dorje Gyalpo (phag mo gru pa rdo rje rgyal po), 1110–1170
  4. i.e., Mahāvairocanābhisabodhi-sūtra

Nguồn: Trích từ tuyển tập Pratyekabuddhayana, soạn giả Kyabgön Phakchok Rinpoche giảng về Chín thừa cao quý (Nine Yanas), Lotsawa House, 2016.c
(Tạp chí nghiên cứu Phật học số 1-20021)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30439)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 27675)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 29976)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 22982)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 30591)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31208)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37096)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32240)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27083)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 30036)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23110)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22303)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 30861)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41487)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 24945)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23659)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25277)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 58631)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 20849)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28872)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 28591)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 23920)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 24804)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 61784)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 22087)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 23940)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41180)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 33155)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 25734)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 31264)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38521)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21403)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44214)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45700)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32082)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23937)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27655)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19444)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19212)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 27507)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27880)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26695)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 22632)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 30282)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 44200)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35489)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 20664)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24747)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37896)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 21788)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 32592)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26210)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28912)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43119)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant