Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực hành nhẫn nhục

28 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 21757)
Thực hành nhẫn nhục

THỰC HÀNH NHẪN NHỤC
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

blankNgày 23 tháng 7 năm 2011 tại Nyoma, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đã khai thị hoàn toàn bằng tiếng Ladakh về chủ đề Sodpa tức “Nhẫn nhục ba la mật”. Sau đây là phần trình bày tóm tắt nội dung bài giảng pháp của Ngài:

Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa. Trước hết, khi bạn đang đau khổ tột cùng, đừng bao giờ buông xuôi và nản chí. Bạn cần lạc quantiếp tục thực hành thiện hạnh. Bạn cần phải kiên trì thực hành Phật Pháp. Chúng ta đã thực hành và nghe thuyết pháp rất nhiều, vậy mà dường như chúng ta chẳng hề tinh tấntiến bộ. Đó chính là vì chúng ta thiếu mất Sodpa.

Bất cứ khi nào cảm thấy vui sướng hạnh phúc, bạn đều dễ bị trôi lăn lạc bước. Bạn không biết tự thỏa mãn, bằng lòng, và tâm bạn luôn tràn đầy kiêu mạn tự hào. Chẳng hạn nếu bạn là người giàu có nhất trong làng, bạn cảm thấy rất tự hào về mình và coi thường người khác. Có được sự giàu cósức khỏe là điều rất tốt, bởi lẽ ai cũng cần có tài bảo và sức khỏe, nhưng đừng nên ngã mạn. Nếu bạn giàu có, hãy biết cảm ơn những nghiệp thiện mình đã tích lũy. Đừng coi thường người khác.

Là người mạnh mẽ, đẹp đẽ, khỏe mạnh hay giàu có không nên là lý do khiến bạn trở nên ngã mạn, vì ngã mạn sẽ mang lại kết quả không tốt đẹp. Thí dụ, nếu bạn xinh đẹphãnh diện về vẻ đẹp của mình, bạn sẽ phải chịu nhiều đau khổ khi nhìn thấy chỉ một vết nhăn hay một cái mụn nhỏ nổi trên mặt. Lúc này đây, trước mặt tôi, tất cả chúng ta đều có làn da cháy nắng, đen đủi và nhăn nheo. Thật đáng tri ânchúng ta xấu xí, như vậy chúng ta sẽ không có cơ hội để ngã mạn và vì thế chúng ta sẽ không phải gánh chịu khổ đau. Ha! Ha! Ha!

Nếu bạn đang hạnh phúc, bạn không nên để mình lạc bước hay vui mừng quá độ. Bạn cần biết vì sao mình có được hạnh phúc và không nên kiêu mạn vì những gì mình đang có. Mỗi khi có được quyền lực và sự giàu sang, bạn phải hiểu rằng những điều đó rất vô thường và sẽ không trường tồn bền lâu.

blankSodpa có nghĩa là bạn không nên kiêu mạn về bản thân khi mọi điều suôn sẻ thuận lợi đến với mình, và bạn không nên buồn rầu khi những người khác làm tốt hơn bạn, thay vì thế bạn cần phải hoan hỷ giống như chính mình đang thành công như họ vậy.

Thời xa xưa, vua chúa là những người có quyền lực. Họ dùng quyền lực để xây dựng nên rất nhiều thành lũy, cung điện, người dân chẳng có lựa chọn nào khác và buộc phải tuân theo. Giờ đây, tất cả những gì còn lại từ những công trình vĩ đại ấy chỉ còn là đất đá và đổ nát. Những vị vua đó đều đã qua đời từ lâu và bạn chỉ có thể biết tới những thành tựu lớn lao của họ qua những trang sử sách còn lưu lại. Điều này cho chúng ta thấy mọi thứ đều vô thường. Vì vậy, chúng ta cần thực hành Sodpa mỗi khi cảm thấy hạnh phúc hay bất hạnh.

Chúng ta luôn nghĩ và tin tưởng rằng tiền bạc là tất cả. Nếu có được tiền bạc, chúng ta sẽ có thể xoay chuyển được cả thế giới. Và để có được tiền, người ta sẵn sàng làm mọi điều xấu xa. Rất nhiều người trong chúng ta tin rằng nếu giàu có, chúng ta sẽ hạnh phúc. Nhưng sự thực lại không phải như vậy.

Sodpa thực chất chính là sự thực hành Bồ tát đạo. Nếu không có Sodpa thì sự thực hành Bồ tát đạo sẽ không thể nào viên mãn. Cho dù chúng tathực hành bất cứ pháp nào, như Lục độ Ba La mật hay bất cứ một công hạnh nào khác, chúng ta đều cần thực hành Bồ tát đạo với tình yêu thươnglòng bi mẫn. Nếu không có tình yêu thươnglòng bi mẫn, chúng ta sẽ không thể thực hành Lục Độ Ba La Mật cũng như mọi thiện hạnh khác.

Vạn Pháp đều không nằm ngoài từ bitính không. Từ biphạm trù vô cùng rộng lớn và tính không vô cùng sâu xa. Từ và bi giống như những đội quân đóng ở biên phòng để canh giữ biên giới cho tổ quốc, chống lại mọi thế lực thù địch. Chẳng hạn như đội quân biên phòng có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc ở biên cương, nếu chỉ đi người không thì quả thật là điều vô cùng ngu ngốcvô nghĩa. Họ cần phải được trang bị vũ khí. Tương tự như vậy, bạn cần phải được trang bị tâm từtâm bi để có thể chống lại những xúc tình tiêu cực hiện tướng của ngũ độc, tức là sân giận, tật đố, chấp thủ, vô minhngã mạn. Vì vậy, nếu bạn tìm kiếm giác ngộ, bạn cần phải thực hành vì lợi ích của hữu tình chúng sinh. Nếu khôngsức mạnh của tình yêu thươnglòng bi mẫn, bạn sẽ không thể đạt tới giác ngộ. Khi bạn thực hành tâm từtâm bi với động cơ chân chính, sự thực hành sẽ thực sự che chở và giúp đỡ cho bạn có thể chinh phục mọi xúc tình tiêu cựcvượt qua mọi chướng ngại. Thí dụ, có một lần Đức Phật, với tâm đại từ đại bi đã thành thục viên mãn, bị người em họ Ngài là Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) đem tâm đố kỵ âm mưu ám hại. Devadatta định hãm hại Đức Phật bằng một hòn đá tảng, nhưng hòn đá lại lăn xa khỏi người Đức Phật rồi quay vòng trở lại. Một thí dụ khác, Đức Phật đã gặp một đàn voi say điên cuồng giết hại mọi ngườiphá hoại nhà cửa. Khi tới gần Đức Phật, chúng bỗng trở nên hiền lành, bình tâm trở lại, và quỳ lạy dưới chân Đức Phật. Không ai có thể kiểm soát được đàn voi ấy, nhưng với lòng từ bi, Đức Phật đã có thể chế ngự được chúng.

Nhờ thực hành trưởng dưỡng tâm từ bi, Đức Phật đã hoàn toàn chuyển hóa sân giận, vô minh, bám chấp cũng như mọi xúc tình tiêu cực khác trong tâm mình. Nếu bạn không thể phá bỏ được những xúc tình tiêu cực ấy, không thể kiểm soát được tâm sân giận của mình, có thể rốt cuộc bạn sẽ giết hại kẻ thù của mình. Gia đình họ hàng quyến thuộc của kẻ thù sẽ truy đuổi bạn và kết quả là bạn có thêm nhiều kẻ thù hơn. Nếu giết hại 100 kẻ thù, bạn sẽ có thêm 5,000 kẻ thù khác. Bạn sẽ chỉ làm tăng thêm chứ không làm giảm đi những quả báo bất thiện. Vì vậy nên bạn đừng nghĩ tới chuyện loại bỏ kẻ thù bên ngoài của bạn, thay vì thế, bạn cần phá hủy tâm sân giận bởi đó chính là kẻ thù bên trong của bạn.

Như vậy, số lượng kẻ thù sẽ tăng lên hay giảm đi chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào mình bạn. Tam độc hay ngũ độc được coi là kẻ thù bên trong của bạn, còn mọi người, chúng sinh hay hoàn cảnh đều được coi là kẻ thù bên ngoài. Chúng ta vẫn thường cố gắng hết sức để phá hủy những kẻ thù bên ngoài mà không hề biết rằng chỉ cần phá hủy được kẻ thù bên trong, mọi kẻ thù bên ngoài sẽ hoàn toàn biến mất.

Khi sân hận, bạn chiến đấu và giết hại kẻ thù, rồi sau đó bạn cảm thấy rất tự hào về mình. Nhưng đối với một con người, đây là điều tệ hại và xấu xa nhất không được phạm phải. Xét từ góc độ từ bi nhân ái, từ góc độ tâm linh hay thậm chí từ góc độ xã hội, sân giận là một điều vô cùng xấu xa. Mọi người có thể sẽ không chê bai trước mặt bạn, nhưng khi vắng mặt họ sẽ nói với nhau “Không nên gần gũi người đó”. Vì vậy chúng ta cần phải kiểm soát được tâm mình.

Nếu nói về tài bảo thế gian thì có bao nhiêu cũng không bao giờ đủ. Hôm nay bạn có thể có 10 đô la nhưng bạn vẫn ước ngày mai có 20 đô la, và mỗi ngày ước muốn đó càng tăng lên. Bạn không bao giờ mãn nguyện. Điều này giống như uống nước muối khi bạn đang khát. Càng uống bạn càng thấy khát. Đó chính là hậu quả của lòng tham muốn hay dục vọng. Cách đối trị là mỗi ngày bạn cần kiểm soát sự tham muốn trong nội tâm. Chẳng hạn khi thấy một thứ gì đẹp đẽ, tâm tham muốn bên trong của bạn lập tức muốn có được thứ đó. Nhưng bạn cần kiểm soát tâm mình bằng cách từ bỏ ham muốn đó. Mỗi ngày, từng ngày một, từng chút một, bạn làm như vậy, rồi sẽ tới một ngày bạn kiểm soát được tâm mình.

Chẳng hạn nếu bạn nghiện thuốc hay nghiện rượu, bạn sẽ không thể bỏ được ngay một lúc. Cho dù bạn có phát nguyện, rồi cuối cùng bạn cũng sẽ không làm được. Vì thế, hãy cố đừng giữ bất cứ điếu thuốc nào trong túi, đừng đi chơi với những người bạn thích uống rượu. Hãy đề nghị bạn bè đừng uống rượu hay hút thuốc trước mặt bạn. Nếu bạn có thể thực hiện điều này từng chút một, có khi bạn chưa kịp nhận thấy thì bạn đã từ bỏ được thói quen xấu đó rồi. Nếu không, khi gặp gỡ bạn bè, có thể vì lịch sự, bạn sẽ uống một chút rượu hay hút một điếu thuốc. Và bạn tự nhủ rằng chỉ một lần này thôi thì cũng chẳng hại gì. Cứ như vậy cuối cùng mỗi lần bạn sẽ dùng thêm một chút, cho tới khi bạn sẽ chẳng thể ngừng thói quen xấu đó lại được nữa.

Tất cả những thói quen xấu như hút thuốc hay uống rượu đều rất tổn hại đối với con đường dẫn tới giác ngộ xét từ khía cạnh thực hành tâm linh và cả từ góc độ thế tục. Những thói quen này đều rất có hại tới sức khỏe. Hút thuốc rồi sẽ dẫn tới căn bệnh ung thư, thế nhưng mọi người vẫn cứ tiếp tục hút cho tới khi bị mắc bệnh thật sự. Khi họ mắc bệnh thì đã quá muộn rồi. Vì thế nếu bạn có thể đấu tranh để loại bỏ chúng, từng chút một, từng ngày một bạn sẽ có thể đạt được tiến bộ. Đó cũng chính là thực hành Bồ tát đạo.

Bất cứ điều gì bạn nhìn thấy, nghe được hay cảm giác đều là do tâm tạo tác. Tâm chính là yếu tố mang lại cảm giác mãnh liệt về điều gì tốt, điều gì xấu. Chẳng hạn như ngọn đồi ngoài kia, tâm nói với chúng ta rằng ngọn đồi đó cao hay thấp. Ngọn đồi không phải do tâm tạo ra, nhưng tâm tạo ra những hoàn cảnh hay điều kiện về ngọn đồi. Chẳng hạn tâm nói với chúng ta món ăn này ngon hay dở, nói với chúng ta thứ này ngắn hay dài. Nhưng tất cả mọi thứ đều chỉ là vọng tưởng, ngay cả tâm cũng không phải là thật. Nếu bạn thử tìm kiếm xem tâm ở đâu; tâm có màu gì; tâm có kích thước như thế nào; bạn sẽ không thể nào tìm thấy câu trả lời. Đó chính là bản chất của tâm.

Có và không, xấu và tốt, cao và thấp, tất cả đều chỉ mang tính tương đối. Tự tính của vạn phápchân không. Do tâm là hư vọng nên mọi thứ do tâm tạo ra cũng đều là hư vọng, và chúng ta không nên đuổi theo hư vọng.

Chúng ta thường có khuynh hướng tham chấp ái luyến những con người, những hoàn cảnh, những sự vật hiện tượng tốt đẹp. Chẳng ai muốn chịu đựng đau khổ. Ai cũng muốn được hạnh phúc. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều là hư vọng. Giống như cầu vồng vậy. Tất cả những thứ tốt đẹp cũng giống như cầu vồng, đều không có thật. Thực hành xả chấp cũng là thực hành Bồ tát đạo. Bám chấp sẽ dẫn tới khổ đau vô lượng. Thế nhưng cũng đừng nên tuyệt vọng khi gặp đau khổ, vì đau khổ cũng chỉ là hư vọng mà thôi.

Khổ đau muôn hình vạn trạng, trong đó có bốn nhóm chính. Thứ nhất là bạn đau khổ khi không có được điều minh mong muốn. Thứ hai là ngay cả khi đã có được thứ mình mong muốn rồi, bạn vẫn đau khổ vì lo sợ sẽ đánh mất nó. Loại khổ thứ ba là bạn gặp gỡ những người hoặc những hoàn cảnh mà bạn không mong muốn song lại chẳng có cách nào để trốn tránh. Loại khổ thứ tư là bạn buộc phải xa lìa những người, những đồ vật hay những hoàn cảnh mà bạn yêu mến.

Đây là bốn loại khổ thông thường vẫn gặp. Có những người khổ vì ốm đau, có những người khổ vì mất người thân yêu v.v. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau khổ. Nếu như bạn gặp phải bất cứ cảnh ngộ nào như vậy, bạn đừng nên tuyệt vọng. Bạn cần phải hiểu rằng đau khổbản chất của luân hồi. Hãy nghĩ về điều đó và tự nhủ, “Mình đang đau khổ bởi những nghiệp quả bất thiện trong quá khứ đang chín muồi”. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng hay hoảng loạn, bạn hãy bình tâm và cầu nguyện. Hãy thử suy nghĩ và hành động tích cực, thiện lành, để trong tương lai và những đời sống sau nữa bạn sẽ không phải trải qua cảnh khổ tương tự. Trong khi đau khổ, bạn cũng cần nghĩ tới những người đang chịu đau khổ giống như bạn, hãy cầu nguyện cả cho họ và nguyện rằng họ sẽ không phải chịu đau khổ giống như bạn đang phải chịu.

Đau khổvọng tưởngvọng tưởng giống như một giấc mơ. Thí dụ như khi bạn nằm mơ thấy con mình tử nạn, trong mơ bạn cảm thấy đau đớn tột cùng, cho dù đó chỉ là giấc mơ. Ngay khi thức dậy, bạn nhận ra rằng con bạn vẫn còn sống và đó chỉ là một cơn ác mộng. Điều này cho thấy những đau khổ chúng ta đang trải qua cũng chỉ là ảo vọng. Hiểu được rằng đau khổhư vọng cũng là thực hành Bồ tát đạo.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21732)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27476)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26523)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29283)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20169)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20884)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29788)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22112)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24348)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21032)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21534)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28000)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20593)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23620)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33141)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31814)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39587)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19355)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24790)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29106)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22537)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24533)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31320)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26213)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31192)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20247)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22886)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30021)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21544)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20226)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28757)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34698)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22520)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21344)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35086)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37855)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21315)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24063)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20834)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22448)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25089)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 22934)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant