Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A Di Đà Kinh Hợp Giải

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 46693)
A Di Đà Kinh Hợp Giải


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

Phần Một 

Lời Trần Tình

 Trong các kinh điển Ðại Thừa được lưu truyền rộng rãi, xét về mức độ được giảng giải, trì tụng, có lẽ kinh Di Ðà chỉ kém Tâm Kinh Bát Nhã. Từ trước đến nay, trong các tùng lâm, kinh Di Ðà vẫn thường được tụng vào mỗi thời công phu tối và hầu như bất cứ vị Tăng Ni thuộc truyền thống Bắc Tông nào cũng đều thuộc lòng kinh Di Ðà. Bổn Sư của mạt nhân kể rằng: Trong thời gian làm điệu, ngoài bản Sa Di Tỳ Ni, Hòa Thượng viện chủ bắt các điệu phải học thuộc lòng Di Ðà đến nỗi có thể đọc từ chữ cuối ngược lên đầu kinh mà không vấp. Khi học chữ Hán, văn bản đầu tiên Hòa Thượng dùng để dạy các điệu cũng là kinh Di Ðà. Khi Hòa Thượng còn tại thế, dù tụng kinh gì đi nữa, mỗi ngày đại chúng trong chùa đều phải tụng Di Ðà ít nhất một lần

Tuy được lưu truyền, trì tụng rộng rãi trong khắp các tùng lâm, đối với Phật tử nói chung, kinh Di Ðà vẫn là một kinh bị hiểu lầm nhiều nhất. Trong một lần trò chuyện với một Phật tử tu tại gia lâu năm, cũng tu hạnh Tịnh Ðộ, mạt nhân đã sững sờ khi nghe vị ấy nói: “Cháu tụng kinh gì hằng ngày? Kinh Di Ðà hả? Mỗi ngày tôi tụng một quyển Pháp Hoa hay kinh Niết Bàn kia, chứ những kinh nhỏ, sơ cơ như kinh Di Ðà, kinh Ðịa Tạng chỉ khi nào đi đám ma tôi mới thèm tụng đến mà thôi!” Tưởng chỉ mình vị ấy nghĩ như thế, nào ngờ phần lớn những đạo hữu thường gặp hằng tuần tại ngôi chùa gần nhà cũng đều cho rằng kinh Di Ðà chỉ dành để đọc cho người chết nghe! Thật là đáng buồn, bản kinh quý báu, tâm huyết của đức Thích Tôn, diệu dược cho đời Mạt Pháp đã bị hiểu lầm, rẻ rúng đến thế ấy!

Sau này, khi đi nghe giảng, chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy không ít vị xuất gia cũng tỏ vẻ coi thường kinh Di Ðà. Theo họ, kinh Di Ðà chỉ dành cho hạng ông già, bà cả, ít chữ trì tụng. Ðối với những vị giảng sư thao thao thuyết giảng, tự hào làu thông kinh điển Tam Tạng ấy, kinh Di Ðà chỉ là một thứ ngụ ngôn, một thứ phương tiện quyền biến, hay nói khó nghe hơn là một thứ bánh vẽ để dẫn dụ những hạng sơ cơ nhập đạo. Thậm chí có vị còn chê kinh Di Ðà là kinh nặng tính van vái, cầu xin, quỵ lụy không thích hợp với Phật pháp hiện đại! Một thầy còn tuyên bố thẳng thừng: “Còn trẻ mà tu Tịnh Ðộ thì uổng quá! Tôi chỉ khi nào bịnh gần chết, không còn làm gì được nữa, mới đành chịu nằm niệm Phật! Người tu Tịnh Ðộ lúc nào cũng nghĩ đến cái chết, đôi vai trĩu nặng nỗi buồn. Thay vì cứ lẩm nhẩm niệm Phật, sao không quán tưởng cảnh giới mình đang sống đây chính là Cực Lạc”.

 Hậu quả tất nhiên là có không ít Phật tử mỗi Chủ Nhật đến chùa tụng một phẩm Pháp Hoa hay Kim Cang, niệm Phật dăm câu lấy có; thế là đã an tâm mình đã “mua sẵn vé” về cõi Cực Lạc, là đã tu nhiều lắm rồi! Chẳng ai bận tâm tìm hiểu giáo nghĩa kinh Di Ðà chi cả. Người tự nhận mình là hạ căn chỉ mong khi chết được vãng sanh, nhưng mấy ai bận tâm đến Tín - Hạnh - Nguyện! Những người tự coi mình là bậc thượng căn thì nếu có ai khuyên nên niệm Phật sẽ cười mũi, bảo chỉ có tham thiền hay quán tưởng, trì chú mới là pháp xứng đáng để họ tu tập thôi. Tiếc thay, tuy nói thế, họ cũng chẳng dụng công tọa thiền, cũng chẳng dụng công quán tưởng, trì chú, chỉ luôn nhai nhải: “Duy Tâm Tịnh Ðộ, tự tánh Di Ðà! Cực Lạc là đây, lựa tìm đâu xa!”, rồi vẫn an nhiên mặc cho quang âm vùn vụt thoáng qua!

Pháp môn Tịnh Ðộ nói chung và kinh Di Ðà bị hiểu lầm như thế có phải vì kinh Di Ðà không được giảng giải cặn kẽ hay không? Hoàn toàn không, từ xưa đến nay, ngoài hai kinh Kim CangTâm Kinh, có lẽ kinh Di Ðà đã được giảng và chú giải nhiều nhất. Tính cho đến hiện tại, đa số các vị giảng sư dù ít hay nhiều đều đã từng giảng qua bản kinh này. Ðiều đáng ngạc nhiên là ít có Phật tử nào chịu tìm đọc các bản chú giải kinh A Di Ðà, đành phải hiểu kinh qua cách diễn giảng của các vị giảng sư không mặn mòi với pháp môn Tịnh Ðộ. Do quá nhiệt tình đề xướng pháp môn của tông phái mình, các vị giảng sư ấy đã nhìn kinh Di Ðà qua lăng kính đầy thiên kiến, khiến thính chúng đã lầm càng lầm thêm. Ðiều đáng buồn là hai bản chú giải trác tuyệt là Di Ðà Yếu Giải và Di Ðà Sớ Sao đã được phiên dịch sang Việt ngữ từ lâu, nhưng có mấy người chịu đọc kỹ càng! Bao lẽ tinh yếu, sâu xa, huyền diệu của kinh Di Ðà đã được hai vị Tổ Sư Liên Trì và Ngẫu Ích phơi bày đến cùng cực. Theo mạt nhân thấy biết, mỗi khi giảng kinh, các vị giảng sư hoằng dương Tịnh Ðộ không ít thì nhiều đều phải dẫn trích ý kiến của nhị vị Tổ Sư.

 Năm 1984, trong một lần thọ Bát Quan Trai Giới, trong giờ nghỉ trưa, mạt nhân nghe một cụ đạo hữu lớn tuổi than vãn là đã tốn nhiều công đọc bản Sớ Sao, nhưng vẫn chưa thể lãnh hội nổi. Theo cụ, ý nghĩa của Sớ Sao quá uyên áo, quá phức tạp; tiếc thay từ ngữ, câu văn được dùng trong bản dịch lại quá cổ, dịch quá sát theo cú pháp Hán văn, nên rất khó cảm nhận được ý chỉ lời dạy của Tổ. Khi đọc qua Yếu Giải, tuy lời văn trong sáng, giản yếu hơn, cụ vẫn cảm thấy khó lãnh hội những phần Tổ luận về Chân Như, Thật Tướng... Cụ cho rằng để lãnh hội được phần nào hai bản chú giải trên, người đọc phải hiểu biết khá nhiều về Phật pháp cũng như phải hiểu được một số thuật ngữ chuyên môn của Hoa Nghiêm, Thiên Thai lẫn Duy Thức. Do thế, những người mới học Phật sẽ dễ chán nản, khó thể kiên nhẫn theo dõi toàn bộ hai bộ chú giải trên.

 Nghe lời than thở ấy, mạt nhân chợt suy nghĩ: sao mình không tổng hợp những lời giảng của các vị giảng sư cận đại Trung Hoa để tạo thành một cuốn chú giải kinh Di Ðà dễ hiểu hơn, ngõ hầu các hành nhân sơ cơ, chưa biết nhiều về Phật pháp có thể đọc hiểu được. Khi đã có khái niệm căn bản về những thuật ngữ thường dùng trong kinh, nắm được ý chính của kinh Di Ðà, họ sẽ lãnh hội được các bản Yếu Giải và Sớ Sao dễ dàng hơn.

 Ý định này nung nấu đã lâu, nhưng tháng ngày thoi đưa, mạt nhân vẫn chưa tìm được tài liệu vừa ý. Khi ấy, trong tay mạt nhân chỉ có Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giải của lão cư sĩ Hoàng Trí Hải. Tiếc thay, tác phẩm này chỉ là viết lại ý kinh theo thể văn Bạch Thoại, cũng như giải thích đôi ba thuật ngữ Phật giáo, để những người không quen đọc cổ văn Trung Hoa có thể hiểu được nội dung kinh Di Ðà theo mặt văn tự, chứ không nêu lên kiến giảiđặc biệt. Ðã thế, lời văn lại quá rườm rà, chỉ thích hợp cho độc giả Trung Hoa, không bõ công dịch sang tiếng Việt. Sau này được đọc thêm cuốn Di Ðà Kinh Dị Giải của bà Hàn Anh, đổng sự trưởng Tịnh Tông Học Hội Ðài Loan, thì cuốn này cũng chỉ là bản rút gọn tác phẩm của cụ Hoàng Trí Hải, nên cũng không gợi lên một sự hứng thú nào. Khi sang Mỹ, do bận rộn với sinh kế và việc học, ý nguyện xưa tưởng chừng như quên lãng hẳn.

 Ngẫu hợp sao, giữa năm 2002, đạo hữu Minh Lập đã gởi tặng một loạt những bản chú giải kinh Di Ðà của các vị giảng sư cận đại như:

1) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Giảng Lục của pháp sư Ðạo Nguyên.

2) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giảng Giải của Nam Ðình Hòa Thượng.

3) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Thích của Pháp Sư Bân Tông.

4) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải Thân Văn Ký do pháp sư Bảo Tịnh giảng.

Kế đó, đạo hữu Không Châu gởi tặng một loạt sách Tịnh Ðộ. Trong ấy, có cuốn A Di Ðà Kinh Thông Tán Sớ của pháp sư Khuy Cơ đời Ðường. Ðã thế, đạo hữu Huệ Trang lại còn cho mượn cuốn Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Văn Châu. Trong một lần đi niệm Phật tại chùa Tịnh Ðộ, mạt nhân thỉnh được thêm cuốn Trùng Ðính Nhị Khóa Hiệp Giải của pháp sư Hưng Từ soạn (trong cuốn này, phần Di Ðà Kinh Huyền Nghĩa cũng chứa đựng nhiều kiến giải lý thú) và cuốn Tịnh Ðộ Tư Lương của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (trong cuốn này, cụ Hoàng chỉ giảng sơ lược về kinh Di Ðà qua bài viết A Di Ðà Kinh Tông Yếu, Tín Nguyện Trì Danh).

Trước sự hiện hữu cùng lúc của bao nhiêu tác phẩm chú giải ấy, ý nguyện xưa chợt sống lại mạnh mẽ trong tâm trí. Tuy thế, mạt nhân vẫn băn khoăn không biết có nên tiến hành hợp dịch ý kiến chú giải của chư sư hay không, chỉ e mình sẽ làm một việc thừa thãi, vô ích. Sau khi thỉnh ý các vị đạo hữu Vạn Từ, Minh Tiến, Minh Lập, Huệ Trang và đều được hứa khả, khuyến khích, mạt nhân đánh bạo gạn lọc những ý chính trong những tác phẩm chú giải trên, chọn lấy những điểm đặc sắc, dịch thành một tác phẩm vụng dại, tạm đặt tên là A Di Ðà Kinh Hợp Giải.

Xét trong các bản chú giải trên, bản chú giải của Pháp Sư Bân Tông chi tiết nhất, nhiều ý tưởng độc đáo nhất, phân chia chương mục rõ ràng nhất, lại có cả phần hiển lý giống như Sớ Sao, nên mạt nhân chọn bản này làm gốc. Bản chú giải của pháp sư Khuy Cơ quá nặng về Duy Thức học nên không thích hợp lắm cho người sơ cơ. Vì thế, mạt nhân chỉ chọn lấy những điểm thật đặc sắcdễ hiểu.

Bản của pháp sư Văn Châu tuy không có nhiều ý tưởng độc đáo, nhưng cách phân chia thành mười môn lớn để chú giải rất giống với cách thích kinh của tổ Liên Trì nên mạt nhân tuân thủ cách phán định và phân chia chương mục của Văn pháp sư.

Khi chọn dịch, những đoạn chư sư nhắc lại ý kiến của chư vị Liên Trì và Ngẫu Ích, mạt nhân đều lược qua không dịch; bởi lẽ, những ý đó đã được phô diễn trọn vẹn trong hai bản Yếu Giải và Sớ Sao. Ðể hiểu những tư tưởng đó, phải đọc trong ngữ cảnh của Sớ Sao và Yếu Giải mới thấy chúng sâu sắc, tinh yếu tuyệt diệu đến dường nào! 

cố gắng hết sức, nhưng với trí huệ nông cạn, trình độ Phật học thiển cận, chắc chắn trong quá trình chọn lọc, chuyển ngữ, không thể nào tránh khỏi những lỗi lầm lẽ ra không nên có. Chỉ mong dịch phẩm thô lậu này sẽ giúp cho những hành nhân sơ cơ có được đôi chút kiến thức sơ cấp để làm hành trang tham cứu ban đầu hòng lãnh hội được những điểm u huyền, tinh túy trong Yếu Giải và Sớ Sao.

Nếu như việc làm liều lĩnh này đem lại chút lợi lạc nào thì xin hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sanh, những ai thấy nghe kinh Di Ðà đều khởi lòng tin kính sâu xa, đều chăm tu Tịnh nghiệp. Nguyện tất cả những hành nhân đồng hạnh Tịnh nghiệp sẽ cùng được hội ngộ nơi quê hương Cực Lạc.

Phật lịch 2547, tiết Lập Thu, Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa kính bạch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18552)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25134)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23762)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28927)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20854)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31444)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25544)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22514)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25710)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25733)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40597)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22442)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22088)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23500)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24303)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41092)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18975)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20472)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38112)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24474)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22685)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26522)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53572)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23594)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30828)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21052)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38780)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20525)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20579)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27049)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28078)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37147)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55168)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37978)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14542)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10643)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant