Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

26 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 28013)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư

kinhthulangnghiemtongthong

MỤC LỤC

Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông.

Lời Nói Đầu.

Tiểu Sử Ngài Thubten Osall Lama.

Phần Thứ I: Phần Tựa.

· Duyên Khởi Của Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông.

· Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông.

· Tựa Chung.

· Duyên Khởi Của Kinh.

Phần Thứ II: Phần Chánh Tông.

· Chương I: Chỉ Bày Chân Tâm.

Ø Mục 1: Gạn Hỏi Cái Tâm.

I. Nguyên Do Của Thường TrụLưu Chuyển.

II. Chấp Tâm Ở Trong Thân.

III. Chấp Tâm Ở Ngoài Thân.

IV. Chấp Tâm Núp Sau Con Mắt.

V. Chấp Nhắm Mắt Thấy Tối Là Thấy Bên Trong Thân.

VI. Chấp Tâm Hợp Với Chỗ Nào Thì Liền Có Ở Chỗ Ấy.

VII. Chấp Tâm Ở Chặng Giữa.

VIII. Chấp Tâm Không Dính Dáng Vào Đâu Tất Cả.

Ø Mục 2: Chỉ Rõ Tánh Thấy.

I. Cầu Đi Đến Chỗ Chân Thật.

II. Phóng Quang Nêu Ra Tánh Thấy Viên Mãn Sáng Suốt.

III. Hai Thứ Căn Bản.

IV. Nương Cái Thấy, Gạn Hỏi Cái Tâm.

V. Chỉ Rõ Tính Thấy Không Phải Là Con Mắt.

VI. Ý Nghĩa Chủ Và Khách.

VII. Chỉ Tánh Thấy Không Sanh Diệt.

VIII. Chỉ Chỗ Điên Đảo.

IX. Lựa Bỏ Tâm Phan Duyên Để Chỉ Tánh Thấy Không Thể Trả Về Đâu.

X. Lựa Riêng Trần Cảnh Để Nêu Ra Tánh Thấy.

Ø Mục 3: Phật Nêu Ra Tánh Thấy Ngoài Các Nghĩa “Phải” Và “Chẳng Phải”.

I. Nghi Tánh Hiện Ở Trước Mắt.

II. Chỉ Ra Không Có Cái Gì Tức Là Cái Thấy.

III. Chỉ Ra Không Có Cái Gì Ra Ngoài Tánh Thấy.

IV. Ngài Văn Thù Kính Xin Phật Phát Minh Hai Thứ.

V. Tánh Thấy Không Có Phải Hay Chẳng Phải.

Ø Mục 4: Phá Những Thuyết Nhân Duyên, Tự Nhiên.

I. Nghi Tâm Tính Tự Nhiên Như Thần Ngã.

II. Chỉ Ra Không Phải Là Tự Nhiên.

III. Nghi Là Nhân Duyên.

IV. Tánh Thấy Không Phải Là Nhân Duyên, Rời Các Danh, Tướng.

V. Bác Nhân Duyên, Tự Nhiên.

VI. Chỉ Thẳng Tánh Thấy.

Ø Mục 5: Chỉ Ra Cái Vọng Thấy.

I. Xin Chỉ Dạy Tánh Thấy Chẳng Do Thấy.

II. Chỉ Ra Hai Thứ Vọng Thấy.

Ø Mục 6: Chỉ Rõ Ý Nghĩa Tánh Thấy Không Phải Là Cái Thấy, Viên Mãn Bồ Đề.

Ø Mục 7: Tóm Thu Về Như Lai Tạng.

I. Tóm Thu.

A. Thu Sắc Ấm.

B. Thu Thọ Ấm.

C. Thu Tưởng Ấm.

D. Thu Hành Ấm.

E. Thu Thức Ấm.

F. Thu Sáu Nhập.

G. Thu Mười Hai Xứ.

H. Thu Mười Tám Giới.

II. Thu Bảy Đại.

III. Đốn Ngộ Pháp ThânPhát Nguyện.

Ø Mục 8: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn.

I. Ông Mãn Từ Trình Bày Chỗ Nghi.

II. Vô Minh Đầu Tiên.

III. Nguyên Nhân Vọng Thấy Có Thế Giới.

IV. Chỉ Rõ Giác Chẳng Sanh Mê.

V. Chỉ Các Đại Có Thể Tương Dung.

VI. Chỉ Tánh Diệu MinhNhư Lai Tạng, Rời Cả Hai Nghĩa “Phi” Và “Tức”.

VII. Chỉ Mê Vọng Không Có Nhân, Hết Mê Là Bồ Đề.

VIII. Lại Phá Xích Nhân Duyên Tự Nhiên.

Ø Mục 9: Chỉ Nghĩa Quyết Định.

I. Các Phép Tu Hành Sau Khi Đốn Ngộ, Phát Bồ Đề Tâm.

II. Tâm Nhân Địa.

A. Xét Rõ Gốc Rễ Phiền Não.

B. Đánh Chuông Để Thể Hiện Tính Thường.

· Chương II: Nương Chỗ Ngộ Mà Tu.

Ø Mục 1: Nêu Ra Cái Căn Để Chỉ Chỗ Mê.

Ø Mục 2: Cột Khăn Để Chỉ Mối Nút Và Cách Mở Nút.

Ø Mục 3: Hỏi Đại Chúng Về Viên Thông.

I. Viên Thông Về Thanh Trần.

II. Viên Thông Về Sắc Trần.

III. Viên Thông Về Hương Trần.

IV. Viên Thông Về Vị Trần.

V. Viên Thông Về Xúc Trần.

VI. Viên Thông Về Pháp Trần.

VII. Viên Thông Về Nhãn Căn.

VIII. Viên Thông Về Tỷ Căn.

IX. Viên Thông Về Thiệt Căn.

X. Viên Thông Về Thân Căn.

XI. Viên Thông Về Ý Căn.

XII. Viên Thông Về Nhãn Thức.

XIII. Viên Thông Về Nhĩ Thức.

XIV. Viên Thông Về Tỷ Thức.

XV. Viên Thông Về Thiệt Thức.

XVI. Viên Thông Về Thân Thức.

XVII. Viên Thông Về Ý Thức.

XVIII. Viên Thông Về Hỏa Đại.

XIX. Viên Thông Về Địa Đại.

XX. Viên Thông Về Thủy Đại.

XXI. Viên Thông Về Phong Đại.

XXII. Viên Thông Về Không Đại.

XXIII. Viên Thông Về Thức Đại.

XXIV. Viên Thông Về Kiến Đại.

Ø Mục 4: Viên Thông Về Nhĩ Căn.

I. Diệu Lực Vô Tác Thành Tựu 32 Ứng Thân.

-Phần 1.

-Phần 2.

II. Bốn Công Đức Vô Úy.

Ø Mục 5: Chỉ Pháp Viên Tu.

I. Phóng Hào Quang, Hiện Điềm Lành.

II. Phật Bảo Ngài Văn Thù Chọn Căn Viên Thông.

III. Lựa Ra Những Căn Không Viên.

IV. Nhĩ Căn Viên Thông Hơn Hết.

* Phụ Lục.

· Chương III: Phật Khai Thị Về Mật Giáo.

· Chương IV: Khai Thị Các Địa Vị Tu Chứng.

Ø Mục 1: Khai Thị Hai Cái Nhân Điên Đảo và Ba Món Tiệm Thứ.

Ø Mục 2: An Lập Các Thánh Vị.

I. Càn Tuệ Địa.

II. Thập Tín.

III. Thập Trụ.

IV. Thập Hạnh.

V. Thập Hồi Hướng.

VI. Tứ Gia Hạnh.

VII. Thập Địa.

VIII. Đẳng GiácDiệu Giác.

Ø Mục 3: Chỉ Dạy Tên Kinh.

· Chương V: Phân Biệt Các Nghiệp Quả Tạo Thành Tam Giới, Chỉ Rõ Các Cảnh Giới Tu Chứng Và Các Chướng Ngại.

I. Hỏi Về Sự Sanh KhởiNhân Quả Của Lục Đạo.

II. Khai Thị Về Phận Trong Phận Ngoài Của Chúng Sanh.

III. Chỉ Ra Mười Tập Nhân Và Sáu Giao Báo.

IV. Không Tu Theo Chánh Giác: Thành Các Thứ Tiên. 

V. Các Cõi Trời

VI. Khai Thị Sự Hư Vọng Của Bảy Loài Để Khuyên Tu Chân Chánh.

VII. Phân Biệt Các Ấm Ma.

A. Nguyên Do Khởi Các Ma Sự.

B. Phạm Vi Của Sắc Ấm.

C. Phạm Vi Của Thọ Ấm.

D. Phạm Vi Của Tưởng Ấm.

E. Phạm Vi Của Hành Ấm.

F. Phạm Vi Của Thức Ấm.

VIII. Sanh TửVọng Tưởng Năm Ấm Mà Có, Lý Tuy Đốn Ngộ, Sự Phải Tiệm Trừ. 

v Phần Thứ III: Phần Lưu Thông.

ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHÂN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TÔNG THÔNG

Đời Đường :

Ngài Bát Lạt Mật Đế, Sa Môn xứ Thiên Trúc dịch.

Ngài Di Già Thích Ca, Sa Môn xứ Ô Trường dịch ngữ.

Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới Đệ Tử chép.

Đời Minh :

Bồ Tát Giới Đệ Tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi tông thông.

Việt dịch :

Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế thiền sư

1994-1950

Biên tập :

Chúng đệ tử Đời Thứ Ba Tây Tạng Tự

ẤN BẢN LẦN THỨ NHẤT - 1997

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27504)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26570)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20192)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29824)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22138)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24389)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29271)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21062)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21578)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29176)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20615)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28295)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33181)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19374)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26393)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24821)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21755)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22554)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21236)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35319)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24546)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31341)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31237)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20266)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22946)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30065)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21578)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20252)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20760)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28796)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34733)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22549)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21381)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19339)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29528)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35157)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28837)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37918)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21336)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27032)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24080)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20859)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34323)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22474)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25128)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 22958)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant