Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

13 Tháng Ba 201512:50(Xem: 10862)
Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

SUY NGẪM NHỎ TỪ MỘT BÀI TỰA KINH LĂNG GIÀ

Huỳnh Ngọc Chiến


Kinh Lăng GiàTôi đọc lời tựa Lăng Già của Tô Đông Pha nhiều lần và không lần nào lại không thấy kính phục tầm nhìn thăm thẳm xuyên suốt đến cả ngàn năm sau của thiên tài Tô Thức. Cặp mắt đó đúng là “cặp mắt trong nghìn xưa”, như lời tán thán của Lâm Tây Trọng đối với ông trong phần bình về thiên Liệt ngữ Khấu của Nam hoa kinh.

Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả, xem nhưtâm ấn của chư Phật. Điều này đã được ghi chép trong kinh điển, dù có nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ tính xác thực của nó. Song một điều không ai phủ nhận rằng Thiền chỉ trở nên cực thịnh khi kinh Lăng Già được thay bởi kinh Kim Cương, và điều này được đánh dấu bằng sự kiện Lục tổ Huệ Năng, khi còn là người đốn củi, nhờ nghe câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà phát minh tâm địa.

Từ sau thời Lục tổ, ngọn Thiền phong đã vươn lên đỉnh cao chót vót trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc với những gương mặt chói lọi của chư Tổ như Mã Tổ, Bách Trượng, Lâm Tế, Triệu Châu, Vân Môn… Nhưng cũng như mọi trào lưu theo lẽ sinh trụ dị diệt, sau một thời gian cực thịnh "Bách hoa nộ phóng, bách điểu tề minh” vào đời Đường, Thiền tông dần dần bị suy vibiến tướng vào thời mạt pháp. Ngay từ thời Tống, trong lời tựa cho kinh Lăng Gia ấn bản Kim sơn thường trụ, nhà thơ Tô Đông Pha đã nói lên thực trạng đau xót của kinh điển Phật giáoThiền tông. Bài tựa rất ngắn nhưng cực kỳ hàm súc, mà gần một ngàn năm sau, mỗi khi đọc lại, chúng ta không khỏi thán phục cho đôi mắt quán tuyệt thiên thu của ông.

Trước 1975, ở miền Nam, từ ảnh hưởng của bộ Thiền luận của Suzuki, phong trào nghiên cứu Thiền rộ lên ở miền Nam trong giới trí thức. Đi đâu cũng nghe đến Thiền, đến Zen, đi đâu cũng nghe đến Suzuki, đến Krishnamurti. Không ít người đua nhau tìm đến với Thiền bằng thái độ tìm đến với tác phẩm tiểu thuyết của Quỳnh Dao, xem như món "thời trang trí thức” cần phải có. Và có một dạo trong khoảng hai thập niên gần đây, các từ "vô sở đắc”, vô ngôn”, "vô thường”, "vô tâm”, "vô sở trụ”… với nội hàm ngôn ngữ cực kỳ vi diệu cũng đôi khi bị lạm dụng thành những thuật ngữ dễ dãi được sử dụng khắp nơi.

Tình cảnh trên không khác gì hiện tượng vào thời Tống, mà nhà thơ Tô Thức đã nói đến trong bài tựa kinh Lăng Gia:

"Gần đây, các học giả người nào cũng tôn sùng riêng thầy mình, nhằm điều giản tiện. Hễ được một câu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũng vỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật pháp vẫn còn ẩn khuất vậy”. (Cận tuế học giả các tông kỳ sư, vụ tòng giản tiện, đắc nhất cú nhất kệ, tự vị tử chứng. Chí sử phụ nhân nhụ tử đề chưởng hy tiếu, tranh đàm thiền duyệt, cao giả vị danh, hạ giả vị lợi. Dư ba mạt lưu, vô sở bất chí, nhi Phật pháp vi hỷ!).

Đoạn văn trong bài tựa trên đã điểm đúng tâm bệnh trầm kha của không ít người tìm đến Thiền tôngPhật giáo vào thời đạo pháp suy vi. Theo thiển ý của tôi, tinh hoa Phật pháp - yếu tố quyết định sự tồn vong của Phật giáo vốn đã tỏa sáng từ gốc cây Bồ Đề cách đây hơn hai ngàn năm và tỏa rợp những chân trời tư tưởng của nhân loại - không bao giờ nằm trong các phong trào nghiên cứu rầm rộ mang tính văn hóa đại chúng, hoặc bởi số lượng sách vở in ấn hay số lượng đông đảo của tín đồ đến chùa, mà nằm ở chỗ: phần tinh yếu trong diệu nghĩa của chư Phật có được lĩnh hội hay không và được lĩnh hội đến mức độ nào, hay đó chỉ là những lời bàn bạc luận giải suông, như học phong mang tính từ chương phù phiếm của Trung Quốc vào thời tổ Đạt Ma qua Đông độ?

Bất cứ luận điểm triết học hay tư tưởng nào, khi được trình bày bằng ngôn ngữ, cũng đều hàm ẩn nguy cơ biến thành con dao hai lưỡi. Một khi được sử dụng bởi những kẻ sơ cơ, thì nó dễ trở thành vũ khí nguy hiểm và gây hại trở lại cho kẻ lập ngôn. Đạo Chích trong Nam hoa kinh đã từng dùng các khái niệm Nhân- Nghĩa của Khổng Tử để đả phá Khổng Tửbiện hộ cho hành vi cướp bóc của mình. Nhân- Nghĩa trong tay của Khổng Tử là Thiên kiếm, nhưng khi rơi vào tay của Đạo Chích, thì chúng lập tức biến thành Tuyệt đao. Tư tưởng của Nietzsche cũng bị sử dụng để biện minh cho phong trào diệt chủng của Phát xít Đức. Cõi đời này đâu thiếu những người suốt đời không đọc nổi những kháng thư Đại thừa thâm áo, song lại lên giọng cao đạo, dựa vào tông chỉ "bất lập văn tự" của Thiền tông để bài xích việc đọc kinh sách. Đó là bi kịch và hiểm họa của sự lập ngôn. Như vậy thì ta không lạ gì khi từ một tông phái đã hàm dưỡng tâm linh của dân tộc với đỉnh cao vòi vọi về mặt tâm linh trong các thời Lý Trần, có nhiều giai đoạn Thiền lại phải đối mặt với nguy cơ trở thành quái Thiền, loạn Thiền bởi những người chưa một lần trải nghiệm với kinh điển, ngoài những kiến thức góp nhặt đó đây theo lối “Đạo thính đồ thuyết”, mà đức Khổng Tử đã phê phán là hạng "Đức chi khí dã”!

Phật pháp tuy mênh mông vi diệu nhưng chỉ độ cho những người có duyên. Cây Thiền tông chỉ có thể bén rễ vào những mảnh đất đã có sự chuẩn bị sẵn sàng và đầy đủ về mặt tâm linh. Hạt mầm mà Sơ tổ Đạt Ma đem từ quê hương của chư Phật đến gieo xuống miền Đông độ cũng chỉ thực sự lớn mạnh để trở thành đại thụ kể từ sau thời Lục tổ. Kinh nghiệm tâm linh được đổi bằng cánh tay của Nhị tổ Huệ Khả trong một đêm tuyết lạnh trên đỉnh Tung Sơn, hoặc bằng những khắc khoải trằn trọc thậm chí bằng cả mạng sống của chư Tổ đâu phải là thứ mà ai ai cũng được phép luận bàn bằng thái độ dễ dãi và hời hợt?

Tôi đọc lời tựa Lăng Già của Tô Đông Pha nhiều lần và không lần nào lại không thấy kính phục tầm nhìn thăm thẳm xuyên suốt đến cả ngàn năm sau của thiên tài Tô Thức. Cặp mắt đó đúng là "cặp mắt trong nghìn xưa”, như lời tán thán của Lâm Tây Trọng đối với ông trong phần bình về thiên Liệt ngữ Khấu của Nam hoa kinh(1). Ý nghĩa lời tựa của Tô Đông Pha đối với kinh Lăng Già giống như ý nghĩa lời tựa của chủ nhân Mộng liên đường đối với Truyện Kiều. Nếu trước khi đọc Truyện Kiều, ta cần phải đọc bài tựa của Phạm Quý Thích, thì trước khi đọc kinh Lăng Già hay tìm hiểu Thiền tông, ta cần phải nghiền ngẫm lời tựa của Tô Đông Pha.

Bàn về Truyện Kiều, chủ nhân Mộng liên đường nói:

"Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. (Trần Trọng Kim dịch).

Còn Tô Đông Pha nói về kinh Lăng Gia:

"Kinh Lăng già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tíchcổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ru?” (Lăng Già nghĩa triếp u diễu, văn tự giản cổ. Độc giả hoặc bất năng cú, nhi huống di văn dĩ đắc nghĩa, vong nghĩa dĩ liễu tâm giả hồ?).

Giữa hai lời tựa nghe như bàng bạc một mối hòa thanh tương ứng. Nếu lời tựa của Phạm Quý Thích là cánh cửa dẫn vào phương trời u áo của thơ ca Nguyễn Du, thì lời tựa của Tô Đông Pha là cánh cửa dẫn vào cảnh giới huyền ẩn của tư tưởng Phật môn. Tôi xin dịch toàn bộ lời tựa của Tô Đông Pha viết cho kinh Lăng Gia để bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, như là hành trang cần thiết để đi vào cõi “Nhất thiết Phật ngữ tâm”.

***

Lời tựa kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh
Tô Thức

Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo kinh là sở thuyết của chư Phật đời trước, vi diệu đệ nhất, chân thật liễu nghĩa. Cho nên mới gọi là Phật ngữ tâm phẩm. Tổ sư Đạt Ma trao cho Nhị Tổ, nói: “Ta thấy trong tất cả kinh sách ở miền Chấn Đán(2), chỉ có kinh Lăng Già bốn quyển này có thể dùng để ấn tâm, tổ tổ tương truyền, lấy làm tâm pháp”.

Như cuốn Nạn kinh của nghề thuốc, mỗi câu đều là lý, mỗi chữ đều là pháp. Bậc đạt đạo đời sau đều cho là thần diệusoi sáng đạo lý, như mâm tròn chứa hạt châu, như hạt châu chạy quanh trong mâm tròn, chẳng có gì là không trọn vẹn. Còn như có người đưa ra ý mới, cho rằng nền cựu học là đồ vô dụng đáng bỏ đi, nếu đó không phải là hạng ngu xuẩn vô trí thì là kẻ cuồng vọng vậy. Gần đây, các học giả người nào cũng tôn sùng riêng thầy mình, nhằm điều giản tiện. Hễ được một câu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũng vỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật pháp vẫn còn ẩn khuất vậy. Cũng như thầy thuốc trong thôn xóm, chẳng theo kinh luận, cứ cho thẳng các bài thuốc để chữa bệnh, cũng có khi đúng bệnh. Chứ đến lúc gặp cơn bệnh ngặt nghèo, sống chết lửng lơ thì làm sao có thể bàn luận cùng các bậc hiểu kinh học cổ cho được? Thế nhân chỉ thấy họ có một điểm thành công bèn cho là họ giỏi hơn cổ nhân, nhân đó nói rằng không cần học Nạn kinh cũng được, há chẳng sai lầm lắm ru?

Kinh Lăng Già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tíchcổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ru? Vì thế cho nên mới vắng lặng trên cõi đời, hầu như bỏ phế mà rất ít khi nghe đến.

Thái tử Thái Bảo là Lạc Toàn tiên sinh Trương Đạo An, dùng quảng đại tâm mà được thanh tĩnh giác. Năm Khánh Lịch, ông thường đến Từ Châu, tới một Tăng xá, tình cờ thấy được kinh này, cầm vào tay mà trong lòng hoảng hốt như tìm lại được vật xưa. Trang kinh chưa lật mà túc chướng đều tan. Xem kỹ nét chữ, bút tích hãy còn như mới, bao nhiêu vui buồn đều dứt bặt. Nhân đó mà được ngộ nhập, thường lấy bốn bài kệ ở đầu kinh để phát minh điều tâm yếu.

Thức chơi ở cửa nhà ông được ba mươi năm. Tháng hai năm nay đi qua Nam Đô, gặp ông ở nhà riêng. Lúc đó ông đã bảy mươi chín tuổi, bao huyễn diệt đều dứt tận, huệ quang hồn nhiên sáng rỡ, mà Thức cũng đã trải qua ưu tư hoạn nạn quá nhiều, trăm ý nghĩ đã thành tro nguội, ông cho là có thể dạy được, nên trao cho kinh này. Ông lại đem tiền ba ngàn vạn lượng cho in kinh này để phố biến khắp vùng Giang, Hoài. Kim Sơn trưởng lãoPhật Ấn đại sư Liễu Nguyên nói rằng: “In kinh cho lưu hành cũng có lúc hết, viết để khắc thì vô tận”. Thức bèn viết lại, Liễu Nguyên đại sư sai thị giả là Hiểu Cơ đến vùng Tiền Đường tìm thợ giỏi để khắc bản in, lấy đó làm bản Kim Sơn thường trụ.

Nguyên Phong thứ tám (tức năm 1085, H.N.C), ngày mồng chín tháng chín.

***

Mọi kiến giảiluận bàn về Phật pháp đều phù phiếm nếu như nó không dựa trên sự thực chứng. Điều đó thường xuyên được nhắc nhở trong kinh điển, đặc biệtThiền tông với chủ trương: "Giáo ngoại biệt truyền”. Qua lời tựa của Tô Đông Pha, chúng ta hãy tự hỏi tại sao một thiên tài với trí tuệ siêu việt như Tô Đông Pha mà phải ba chìm bảy nổi trên đường công danh, phải kinh lịch hết cuộc bể dâu, phải "trải qua ưu tư hoạn nạn quá nhiều, trăm ý nghĩ đã thành tro nguội” (lão ư ưu hoạn, bách niệm khôi lãnh) mới tạm đủ điều kiện để Lạc Toàn tiên sinh dạy cho về kinh Lăng Già sau ba thập kỷ giao du? Thái độ của cổ nhân đối với Chánh pháp thật đáng là lời cảnh tỉnh để những kẻ hậu học chúng ta phải suy ngẫm, để tìm đến kinh điển Phật giáo hay bàn đến Thiền bằng tất cả sự cẩn trọng của một người đi trên băng mỏng.

Sài Gòn 11-2008

Huỳnh Ngọc Chiến

(1) Xem Nam hoa kinh, bản dịch của Nhượng Tống, NXB Tân Việt, 1962, tr.496.(2) Ngày trước, người Ấn Độ gọi Trung QuốcChấn Đán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21728)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23280)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27472)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26520)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29278)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20167)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20880)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29780)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22109)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24336)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29218)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32083)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21030)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21525)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27998)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29123)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20590)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28257)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23614)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33134)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31802)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39579)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19354)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26323)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24784)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21726)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29102)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22534)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20451)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23470)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21216)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24532)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31315)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26208)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31186)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20242)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22881)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30017)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21540)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20215)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20735)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28754)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34693)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22517)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21338)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19302)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29497)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35072)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28794)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37848)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21312)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27010)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27210)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24059)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20827)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34296)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22443)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25084)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 22930)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant