Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Pháp Khí Và Pháp Thục

03 Tháng Năm 201505:40(Xem: 6474)
Pháp Khí Và Pháp Thục

PHÁP KHÍPHÁP PHỤC

Thích Tín Nghĩa



Pháp Khí Và Pháp ThụcĐây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ, v.v... Pháp phục là những y phục dành cho trong nhà chùa, cũng có thể cho hàng Phật tử tại gia nhưng có thọ giới pháp của Phật. Một số đã có từ khi đức Phật còn tại thế như Y, Bát, ... có một số sau nầy chư Tổ mới tùy duyên sáng chế ra tùy theo quốc độ, tùy theo phương tiện như: Tích trượng, chuông mõ, khánh, bảng, đại hồng chung, ... Pháp khí có những cái liên quan đến cổ nhạc Phật giáo, nhưng có những cái dùng thường ngày.

Hầu hết những vị xuất gia hay tại gia tùy theo tông phái khi tụng kinh, bái sám, hành lễ đều ít nhiều có dùng đến những pháp khí nói trên. Và, cũng tùy theo buổi lễ để xử dụng cho đúng chỗ và đúng điệu của nó. Một bài tán hương cúng Phật được cử lên, ta đã thấy những cung điệu thật nhịp nhàng với nhau một cách tuyệt diệu. Bài tán là một bài thơ Phật pháp được phổ theo điệu nhạc thiền. Nếu bài thơ được phổ dồn dập lời nhạc thì được gọi là tán xấp, nếu phổ theo điệu nhạc lơi thì được gọi là tán rơi. Và, khi ta đi vào bằng một tâm hồn thiền học thì ta ta thấy những âm ba ấy làm cho cõi lòng ta an nhiên tự tạicảm thấy thanh thoát. Vì giá trị văn thơ và triết lý của bài thơ đã là cao sâu, nốt nhạc để diễn tả những vầng thơ ấy lại càng thấm hương vị thiền rất là sâu sắc.

Viết về cổ nhạc Phật giáo, Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba đã nói: "Trong âm nhạc giữa đời, chúng ta nghe có điệu như máu sôi, như lửa cháy, như quỷ khốc thần sầu, có khúc như say đắm dâm ô, như reo cười múa hát. Thật ra, âm nhạc tượng trưng cho cảnh vui buồn tương đối của trò đời giả dối vậy.

Trái lại, âm nhạc nhà Phật là phản ảnh của đời sống an lạc, đạm bạc tâm hồn bình dị thanh khiết của đạo mầu giải thoát khổ đau ... Nội tâm thì bình tỉnh an vui, ngoại cảnh thì thanh thoát hồn nhiên, nên âm nhạc nhà Phật đã thấm nhuần tinh thần thoát tục siêu phàm, không vướng chút gì gọi là ưu sầu phiền lụy.

Ở đây có những nét nhạc lung linh như nến, uyển chuyển như khói trầm, nhẹ nhàng như hương sen, có những nét nhạc như vàng, huy hoàng như vàng son điện tháp, có những nét nhạc trầm hùng và tỏa rộng như chuông chiều, oai nghiêm như đại cổ...

Vậy thì, muốn dùng lễ nhạc Phật giáo đều cần những pháp khí như sau:


1. Chuông:

Xuất xứ: Theo như trong kinh Tăng nhất a hàm có chép: Mỗi khi nghe tiếng chuông ngân lên, thì các hình phạt trong các ác đạo tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh nào đang chịu những hình phạt ấy cũng được tạm thời an vui. Nghe được tiếng chuôngphiền não nhẹ vơi đi.

Trong chuyện Cảm thông cũng có chép:

.. ."Ngày xưa khi đức Phật Câu lưu Tôn ở tại viện Tu đa La xứ Càng trúc đã có tạo một quả chuông bằng đá xanh, thường vào lúc mặt trời vừa mọc khi tiếng chuông ấy vừa ngân lên thì trong ánh mặt trời ấy có các vị Hóa Phật hiện ra, diễn nói 12 bộ kinh, làm cho người nghe được chứng thánh quả không kể xiết".

Trong bộ kinh Kim cang Chí cũng có chép: "Vua Hiếu cao Hoàng đế đời nhà Đường nhơn vì nghe lời sàm tấu của Tống tề Khưu mà giết lầm kẻ tôi trung tên là Hòa Châu, nên khi chết đọa vào địa ngục. Một hôm có một người bị bạo tử (chết thình lình) thần hồn đi lạc vào địa ngục ấy, thấy một tội nhân đang bị gông cùm, bị kềm kẹp đánh đập rất là khổ sở, hỏi ra thì mới biết là vua Hiếu Cao nhà Đường. Vua gọi vị bạo tự ấy vào mà nói rằng: Nhờ ngươi trở lại dương thế nói giúp với hậu chúa rằng: Hãy vì ta mà đúc chuông cúng dường và làm các việc từ thiện. Khi trở lại dương thế, người bạo tử liền đến yết kiến hậu chúa để chuyển lời nhắn nhủ của vua Hiếu Cao. Nghe vậy, hậu chúa liền thân hành đến chùa Thanh Lương phát nguyện đúc một quả chuông để cúng dường và cầu siêu cho Hiếu Cao Hoàng đế. (Tích nầy trong truyện Bách Trượng thanh quy, trang 68 và 87). Đồng thời trong kinh Lăng nghiêm, đức Phật cũng bảo ngài La hầu La đánh chuông để giảng cái lý cho Tôn giả A Nan nghe. Vì thế chúng ta có thể hiểu rằng chuông đã có từ thời đức Phật còn tại thế.

Các loại chuông: Chuông lớn thường gọi là Đại hồng chung, chuông nhỏ thì gọi là Bảo chúng, chuông gia trì cũng có loại lớn, vừa và nhỏ. Tất cả đều gọi chung một tiếng là chuông.


a. Đại hồng chung: Cũng có tên là chuông U minh (mờ mờ, mờ mịt), thường được đánh vào lúc đầu hôm hay lúc gần sáng.

Tiếng chuông đánh đầu hôm là nhắc nhở cho mọi người biết rằng cơn vô thường đến với chúng ta không hứa hẹn, rất ngắn ngũi, nhanh chóng. Đánh vào lúc ban sáng là nhắc nhở cho mọi người cố gắn tinh tiến tu hành để mau vượt thoát ra khỏi cảnh đau khổ, không vướng mắc cảnh tội lỗi và dễ dàng ra khỏi luân hồi sanh tử. Thông thường mỗi lần thỉnh chuông như thế là phải 108 tiếng với mục đích là khuyến tấn vạn loại hữu tìnhđặc biệtcon người cố gắng đoạn trừ 108 phiền não căn bản. Mỗi lần thỉnh chuông được đọc lên những câu kệ để chú nguyện theo tiếng chuông. Kệ chuông như sau:

Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn,
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhất thế chúng sanh thành chánh giác.

Nghĩa là:

Nguyện tiếng chuông nầy vang khắp pháp giới,
Núi Thiết vi mờ mịt kia cũng đều được nghe,
Căn cảnh thanh tịnh chứng bậc viên thông,
Hết thảy chúng sanh thành bậc chánh giác.


Đồng thời, nguyện cho tất cả loài hữu tình lắng lòng nghe tiếng chuông, rồi duyên theo tiếng chuông ấy cũng bằng câu kệ:

Văn chung thanh phiền não khinh,
Trí huệ trưởng bồ đề sanh,
Ly dịa ngục xuất hỏa khanh,
Nguyện thành Phật độ chúng sanh.
Án, già ra đế da tóa ha (3 lần)

Nghĩa là:

Nghe được tiếng chuông, phiền não liền nhẹ,
Trí huệ thêm lớn, sanh tâm bồ đề
Ra khỏi địa ngục, vượt thoát hầm lửa,
Nguyện được thành Phật, để độ chúng sanh.
Án, già ra đế da tóa ha (3 lần)


Tiếng chuông sớm hay tiếng chuông chiều không những chỉ để cảnh tĩnh cõi dương mà còn hướng dẫn cho cõi âm nữa. Vì thế mà thường gọi là chuông U minh.

b. Bảo chúng: Cũng gọi là chuông Tăng đường, tức là chuông nhỏ, chỉ một người xách lên được. Hình thái cũng như chuông U minh, được treo ở trai đường, dùng để báo tin trong lúc họp chư Tăng biết vào những lúc: Nhóm chúng, thọ trai, giờ chấp tác, giờ bái sám trong các tự viện.

c. Chuông gia trì: Loại chuông nầy dùng để đánh lên trong lúc tụng kinh bái sám. Tiếng chuông gia trì được xử dụng trước khi tụng kinh hay báo hiệu sắp hết đoạn kinh đang tụng hay câu niệm Phật. Cũng thường đánh lên khi lạy Phật một mình. Còn khi đông người thì để báo hiệu cùng lạy cho nhịp nhàng. Chuông gia trì có đủ ba loại lớn, vừa và nhỏ. Chuông vừa và nhỏ thì thường thường Phật tử tại gia dùng nhiều hơn và cũng dùng như chư Tăng.

2. Trống:

Xuất xứ: Trong kinh Kim Quang Minh có chép: Một hôm người Tín trưởng Bồ tát nằm mộng thấy một cái trống bằng vàng. Trống ấy có chiếu ra hào quang sáng rực như mặt trời. Trong hào quang có rất nhiều đức Phật đang ngồi trên tòa sen lưu ly đặt dưới những gốc cây quý. Chung quanh các đức Phật đều có trăm nghìn ức vị đại đệ tử đang ngồi nghe pháp. Lúc ấy có một đạo sĩ Bà la môn đang cầm dùi trống đánh mạnh vào chiếc trống vàng, tiếng trống vang rền nghe như lời kinh sám hối. Khi đã tỉnh mộng, ngài Tín trưởng Bồ tát liền đem những điều ấy mà mình đã thấy nghe trình lên đức Thế tôn.".

Trong kinh Lăng nghiêm cũng có chép:
Đức Phật dạy:

- Này A Nan, ngươi hãy nghe tiếng trống mỗi khi dọn cơm xong, nghe tiếng chuông mỗi khi nhóm họp đại chúng trong tinh xá Kỳ đà hoàn nầy. Tiếng trống hoặc tiếng chuông ấy trước sau nối tiếp nhau. Vậy, theo ý ông, mỗi khi ông nghe được các thứ tiếng ấy là vì nó tự bay đến bên tai ông, hay tai ông đến nơi chỗ phát tiếng ấy?". (Đây là lúc đức Phật chỉ cái Tâm cho ngài A Nan)

Có hai loại trống:

a. Trống lớn: Dùng để đánh vào những dịp lễ lớn. Trống lớn thường gọi là trống Bát nhã. Đánh trống lớn có bài kệ của nó. Tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp. Chúng sanh mỗi khi nghe tiếng trống chánh pháp ấy thì tội chướng được tiêu trừ và cũng nhờ đó mà được giải thoát vào cảnh giới an lạc. Vì khi nghe được tiếng trống Bát nhã, tùy loại chúng sanhthâm nhập tiếng trống và có thể nương vào tiếng trống mà cảm nhận được dung nhan của đức Phật. Tiếng trống Bát nhã đánh lên để cung thỉnh Phật đăng bảo tọa. Cho nên có bài kệ như sau:

Bát nhã hội,
Thỉnh Phật thượng đường,
Đại chúng đồng văn,
Bát nhã âm,
Phổ nguyện pháp giới,
Đẳng hữu tình,
Nhập Bát nhã,
Ba la mật môn...

Nghĩa là:

Hội Bát nhã,
Thỉnh Phật lên (giảng) đường,
Đại chúng đều (được) nghe:
Âm Bát nhã,
Vang khắp pháp giới,
Chúng hữu tình (vân vân),
(Đều nhập) lý Bát nhã,
Chứng nhập (pháp môn) Ba la mật.

b. Trống tiểu: Dùng để đánh mỗi khi tụng kinh nên cũng được gọi là trống kinh (tiếng bình dân thường gọi là trống cơm). Ngoài việc dùng đánh để tụng kinh hằng ngày vào hai thời công phu khuya và chiều trong các tự viện, trống tiểu còn dùng để hòa âm trong cổ nhạc Phật giáo và cổ nhạc Việt nam. Trống tiểu thì khó đánh hơn trống lớn. Bài học để xử dụng cho trống tiểu rất nhiều, phức tạp và khó học. Có rất nhiều thể điệu khác nhau như là thể điệu thiền khi tụng kinh, thể điệu ai khi dùng vào đám táng, chẩn tế cô hồn, ... Nếu không học thì không thể xử dụng được.

3. Mõ:

Xuất xứ: Trong bộ sách Sắc tu Thanh quy Pháp khí về chương mộc ngư có chép rằng:

Lời Tương truyền: Loài cá luôn thức không bao giờ ngủ và rất hoạt động. Vì vậy khi tạo loại pháp khí nầy thì mõ được chạm trổ theo hình con cá với thâm ý là muốn thức tĩnh con người cũng như chúng hữu tình đang còn trong mê muội, u trầm.

Trong sách Chính ngôn đời nhà Đường thì chép: Có một người bạch y đến hỏi một vị Trưởng lãoThiên trúc rằng: Tại sao các Tăng xá đều có treo mõ?

Vị trưởng lão trả lời:
- Vì để cảnh tĩnh chúng Tăng tại Tăng xá hay tự viện ấy.
Người bạch y hỏi tiếp:
Nhưng tại sao lại tạc hình con cá?
Vị Trưởng lão không trả lời được. Người bạch y lại hỏi ngài Hộ Biện và được ngài giải thích rằng:
- Loài cá là loài không bao giờ nhắm mắt và thích hoạt động. Cũng vì muốn cho người tu hành ngày đêm quên ngủ, gắng công tu tập, mau chứng đạo quả nên treo và đánh mõ và cái mõ được tạc hình con cá vậy.

Mõ có hai loại: Mõ có hình bầu dục và mõ có hình điếu. Tất cả đều được tạc theo hình con cá.
* Mõ hình hình bầu dục để tụng kinh, điều khiển buổi lễ khi đông người tụng được nhịp nhàng.
* Mõ hình điếu thì treo ở nhà trù dùng để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác. Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để chư Tăng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật. Tiếng mõ vừa giữa cho buổi lễ được trang nghiêm lại vừa giữ cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ. Bởi thế, người đánh mõ gọi là Duyệt chúng, tên nầy gọi là làm đẹp lòng mọi người trong lúc cùng tụng kinh với nhau. Đánh mõ phải học hẳn hoi, đúng điệu và đúng cú pháp của nó.

Ý Nghĩa Về Chuông Mõ:

a. Trước đánh ba tiếng (tiên khởi tam),
b. Kế nhịp bảy (thứ lôi thất),
c. Tiếp đánh ba (tịnh đả tam),
d. Giữa đánh mưới (trung đả thập)
e. Sau cùng dứt bốn (hậu diệt tư).

* Trước đánh ba tiếng: Nghĩa là chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷsúc sanh. Nhưng cũng có nghĩa là cố trừ ba độc: tham, sân và si để vượt lên ba giải thoát để chứng đắc ba đức: Pháp thân, Bát nhã thân và Giải thoát thân. (Phần nầy giảng lượt đi nên không mấy ai biết đến. Chúng tôi viết ra đây cho đu, vì la tài liệu tham khảo).

* Kế tiếp nhịp bảy tiếng: Đây là tiêu biểu cho thất chi tội. Về thân thì có ba: Sát, đạo và dâm. Về khẩu thì có bốn: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệtác khẩu. Sau khi đã đoạn trừ được bảy tội nêu trên liền chứng được thất giác chi: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định và niệm.

* Tiếp đánh ba tiếng: Là phát nguyện tu tam học tức là giới, định và huệ để quyết chứng cho được ba thừa: Thanh văn, Duyên giácBồ tát.

Giữa đánh mười tiếng: Đó là tiêu trừ mời điều ác gồm thất chi tội cọng thêm của ý có ba là mười. Từ đó, chứng nhập mười thân gồm: Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực thân, trang nghiêm thân, oai thệ thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thântrí huệ thân. (Phần nầy, sau nầy giản lượt đi, không mấy ai dùng đến và cũng không mấy ai biết để ý đến. Chúng tôi viết ra đây là vì tài liệu nghiên cứu, phải làm cho đầy đủ mà thôi).

* Sau cùng dứt bốn: Tức là để tiêu trừ bốn tướng: Sanh, lão, bệnh và tử để chuyển thành bốn trí:

+ Thành sở tác trí: Tiền ngũ thức (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt và thân),
+ Diệu quan sát trí: Đệ lục ý thức,
+ Bình đẳng tánh trí: Đệ thất Mạc na thức,
+ Đại viên cảnh trí: Đệ bát A lại da thức.

4. Bảng và Khánh:

Xuất xứ: Bảng và Khánh là một trong những thứ pháp khí của nhà Phật. Hai loại nầy được thường dùng trong ngày ở các chùa, viện. Từ xưa đến nay đều dùng làm hiệu lệnh như báo tin giờ học, tụng kinh, thọ trai, chấp tác của chư Tăng.
Trong sách Tượng khí Tiêu, quyển 18 có chép rằng: Ngài Vân Chương nói:
- Hình của Bảng giống như đám mây, nên người ta cũng gọi là Vân bảng. Còn theo lão Hòa thượng Tục Sư có thuật chuyện vua Tống thái Tổ cho rằng: Tiếng trống hay làm giật mình người ngủ, nên thay vì dùng trống, Tống thái Tổ chế ra thiết khánh. Loại khánh nầy cũng được gọi là Vân bảng. Vì hình của nó cũng giống như hình cánh dơi trên bề lưng lẫn bề mặt có đám mây qua lại, loại nầy có nơi gọi là chinh (chiêng).

Cách chế tác và xử dụng: Theo ngài Vân Chương trong sách Tượng khí tiêu thì hình của Bảng giống như đám mây và làm bằng đồng, thiết. Nhưng nay ở các tòng lâm, tự viện thì dùng bằng gỗ và được chạm trổ theo hình bán kính bát giác. Bề cao khoảng chừng bốn tấc tây, rộng chừng hai tấc tây. Bảng cũng được thay thế cho trống trong những trường hợp nói trên, đồng thời cũng dùng để phân phát đồ cúng dường hay phân xử việc của chúng Tăng... Bảng và Khánh trong luật được gọi là Kiền Chùy Thành. Cách dùng không khác nhau, chỉ khác nhau về hình tướngvật liệu chế tác. Ngày xưa thiết và đồng còn khan hiếm nên chư tổ đã dùng bằng đá cẩm thạch. Tiếng kêu cũng tương tự như khánh đồng, nhưng nhỏ tiếng hơn. Ngày nay các tòng lâm lại ít dùng khánh mà chỉ dùng bảng nhiều hơn.

5. Y: Tàu dịch là Ca sa, tức hoại sắc, bất chính sắc. Dùng để chư Tăng mặc. Những vị chính thức được có Y kể từ khi đã thọ giới luật. Sau khi đắc giới, giới sư quyền thừa Phật Tổ để truyền Y cho giới tử. Y cũng có nhiều bậc khác nhau.

Người thọ mười giới tức là Sa di thập giới: Vị nầy bắt đầu chính thức được ở trong hàng ngũ xuất gia. Những vị thọ mười giới thì chỉ được mặc (mang) chiếc Mạng Y là những chiếc y không có mạng (miếng) nhỏ, tức là Y không có Điều. Khi mặc Mạng y có bài kệ và chú như sau:
Đại tai giải thoát phục
Vô tướng phước điền y,
Phi phụng chư giới hạnh,
Quảng độ chư quần sanh.
Nghĩa là:
Lớn thay áo giải thoát,
ruộng phước không tướng,
Mặc kính đúng giới hạnh,
Rộng độ hết chúng sanh.
Nam Mô Ca Sa Tràng Bồ Tát Ma Ha Tát (3lần)

Vị thọ Cụ túc giới cũng gọi là Tỳ kheo giới hay Đại giới, được mặc những chiếc Y có những miếng vuông, thường gọi là Điều y. Y nầy có ba loại khác nhau như sau:
* Áo mặc ở ngoài gọi là Tăng già lê,
* Áo mặc ở giữa gọi là Uất đà la tăng,
* Áo mặc trong, áo lót gọi là An đà hội.
Chiếc áo Tăng già lê cũng có các bậc khác nhau như:
Ngũ điều y, Thất điều yĐại y

a. Chiếc y có năm miếng thì gọi là Ngũ điều. Khi mặc chiếc y nầy thì đọc bài kệ chú và phát nguyện như sau:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế bất xả ly.
Án, tất đà da tóa ha (3 lần).
Nghĩa là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Nay con đầu đội nhận,
Đời đời không lìa bỏ.
Án, tất đà da tóa ha (3 lần)

b. Chiếc y có bảy miếng thì gọi là Thất điều. Khi mặc chiếc y nầy cũng đọc kệ chú và phát nguyện:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế thường đắc phi.
Án, độ ba độ ba tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Nay con đầu đội nhận,
Đời đời thường được mặc.
Án, độ ba độ ba tóa ha (3 lần)

* Chiếc y từ 9 miếng trở lên 25 miếng thì gọi là Đại y. Đại y cũng có ba bậc:
+ Chiếc Y có 9 miếng, 11 miếng, 13 miếng thì gọi là Hạ Đại Y,
+ Chiếc Y có 15 miếng, 17 miếng, 19 miếng thì gọi là Trung Đại Y,
+ Chiếc Y có 21 miếng, 23 miếng, 25 miếng thì gọi là Thượng Đại Y.

Khi mặc (trong thiền môn thì gọi là đắp) ba bậc Đại y trên đây cũng đọc kệ, chú và phát nguyện như nhau, dưới đây:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Phụng trì Như Lai mạng,
Quảng độ chư chúng sanh.
Án, ma haba tra tất đế tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Vâng giữ Như Lai mạng,
Rộng độ hết quần sanh.
Án, ma haba tra tất đế tóa ha (3 lần)

Những chiếc y nầy đã có từ đời đức Phật. Chiếc y đầu tiên được cúng dường cho chư Tăng là chiếc y của bà Di mẫu của đức Phật (tức là bà Tỳ kheo ni đầu tiên tên Kiều Đàm Di).
Y của chư Tăng được gọi rất nhiều tên: Hoại nạp phục, Hoại sắc phục, Pháp phục, Pháp y, Ứng pháp diệu phục, Liên hoa phục, Giải thoát phục, Giải thoát tràng tướng phục, Xuất thế phục, Ly trần phục, Vô cấu phục, ... Nói chung là Ca sa tràng Như Lai, nghĩa là áo của chư Phật, chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục như trong kinh Pháp hoa đã dạy.

6. Bát:

Xuất xứ: Trong kinh Phật bổn hạnh có nói: Khi đức Phật còn tại thế, có hai thương gia là Đế ly phú bà và Bạt ly ca đều đều ở phía bắc Ấn độ; hai vị nầy, một hôm đem sữa cúng dường đức Phật, nhưng đức Phật không có đồ đựng. Lúc bấy giờ có bốn vị thiên vương đem bốn cái bát bằng vàng đến dâng cúng đức Phật để đựng sữa, ngài không nhận. Bốn vị thiên vương ấy lại trở về đem bốn cái bát khác bằng những thứ quý: ngọc, ngà, xa cừ, ... để dâng cúng đức Phật, ngài cũng không nhận. Sau cùng bốn vị ấy đem dâng cúng bốn cái bát khác bằng đá, đức Phật rất hoan hỷ.
Ý nghĩa: Chữ Bát, tiếng phạn gọi là Bát đa la, Tàu dịch là Ứng lượng khí. Nghĩa là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người.
Bình bát chỉ được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rĩ nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý, ... Nếu dùng bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của bậc xuất gia. Các vị đã phát tâm xuất gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh pháp, nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo.
Đặc biệt bình bát không nên làm bằng gỗ, vì đây là loại bát của Bà la môn đã thường dùng.
Ở các nước Tiểu thừa Phật giáo, chư Tăng thường đi khất thực nên thường dùng bình bát. Các nước theo Đại thừa Phật giáo thì không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba tháng kiết đông nữa; đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường trai tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai. Sau khi các vị đã đắc giới, chư giới sư trao truyền bình bát và bắt đầu trì bình từ đó. Mỗi khi dùng bình bát, tâm thường niệm:
Thiện tai Bát đa la,
Như lai ứng lượng khí,
Phụng trì dĩ tư thân,
Trưởng dưỡng trí huệ mạng.
Án, chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay bát đa la,
Ứng lượng khí của Phật,
Vâng giữ để tu thân,
Nuôi lớn thân và trí,
Án, chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra (3 lần)

Mỗi lần đi khấc thực, tay nâng bình bát đang còn trống không, đức Phật dạy đệ tử của ngài không phiền muộn, không lo lắng mà phải an tịnh và thầm nguyện:
Nhược kiến không bát,
Đương nguyện chúng sanh,
Cứu cánh thanh tịnh,
Không vô phiền não.
Nghĩa là:
Nếu thấy bát không,
Xin nguyện chúng sanh,
Rốt ráo thanh tịnh,
Trống không phiền não.
Và, sau đó thí chủ đã cúng dường phẩm vật đầy đủ, thầm nguyện tiếp như sau:
Nhược kiến mãn bát,
Đương nguyện chúng sanh,
Cụ túc thạnh mãn,
Nhất thế thiện pháp.
Nghĩa là:
Nếu thấy bát đầy,
Xin nguyện chúng sanh,
Chứa đựng đầy đủ,
Tất cả pháp lành.

Mỗi lần dùng bình bát trước và sau khi khất thực hay trước và sau khi thọ trai do tín chủ cúng dường đều phải lau chùi sạch sẽ. Thứ nhất là bát phải sạch sẽ để chứa đựng phẩm vật dâng cúng Tam bảo, kế đến la mình dùng; thứ hai là sau khi dùng xong cũng phải rửa sạch, lau khô để cất giữ cho hợp vệ sinh, cũng thầm niệm bài kệ tẩy bát như sau:
Tẩy bát:
Dĩ thử tấy bát thủy,
Như thiên cam lộ vị,
Thí dữ chư quỷ thần,
Tất giai hoạch bảo mãn
Án, ma hưu ra tất tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Rửa bát:
Lấy nước rửa bát nầy,
Như nước vị nước cam lồ
Đem cho các quỷ thần,
Được no đủ tất cả.
Án, ma hưu ra tất tóa ha (3 lần)

Cũng như trên, mỗi khi rửa bình bát hoặc là nhận phẩm vật thì cũng phải mở ra; mỗi lần mở ra như vậy, cũng thầm đọc câu kệ chú như sau:
Triển bát:
Như lai ứng lượng khí,
Ngã kim đắc phu triển,
Nguyện cọng nhất thế chúng,
Đẳng tam luân không tịch
Án, tư ma ma ni tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Mở bát:
Ứng lượng khí của Phật,
Con nay được giải mở,
Nguyện cùng với mọi người,
Ba vầng đều vắng lặng.
Án, tư ma ma ni tóa ha (3 lần)

7. Tích trượng:

Xuất xứ: Theo kinh Tích trượng có chép: Này các Tỳ Kheo, các ngươi nên thọ trì tích trượng, vì rằng tích trượng là một pháp khí mà ở đời các Như Lai đã có thọ trì.
Ý nghĩa: Tiếng Phạn gọi là Khiết khí la. Tàu dịch là Tích trượng, tức là cái gậy của các vị Tỳ kheo dùng để đi đường hay đi khất thực.
Tích trượng còn có tên là Đức trượng, nghĩa là chiếc gậy trí huệđức độ nầy mà người xuất gia học đạo giải thoát được vững tiến và hướng đến quả vị giải thoát. Trong kinh Tích trượng có chép:
Ngài Ca Diếp bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, thế nào gọi là tích trượng? Đức Phật dạy các ý nghĩa sau đây:
- Tích có nghĩa là Khinh, có nghĩa là nhờ chiếc gậy đức hạnhtrí tuệ nầy mà phiền não được nhẹ đi và sớm ra khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
- Tích cũng có nghĩa là Minh, nghĩa là được trí huệ sáng suốt, là hết khổ não.
Đường kính của chiếc tích trượng thì vừa đủ cho vòng tay của người xử dụng. Cũng còn được gọi với những tên: Thỉnh trượng hay Minh trượng. Vì, trong khi đến nhà ai, vị sa môn cần gõ tích trượng xuống đất để người trong nhà biết. Trên đầu tích trượng có bốn cái gọng và 12 cái vòng. Đó là biểu tượng cho tứ diệu đếthập nhị nhơn duyên., buộc các tỳ kheo luôn luôn phải nhớ nghĩ, luôn luôn phải thực hành. Ngoài ra còn có loại tích trượng trên đầu chỉ có hai cái vòng và sáu cái khâu, thì nó tượng trưng cho chơn đế, tục đếlục độ. Tích trượng nầy do đức Phật Ca Diếp chế ra. Tất cả hai loại tích trượng ấy đều không cao quá đầu người.
Các tích trượng của Bà la môn thì có bảy mắt và có ba bậc: sơ, trung và thượng. Theo phái Bà la môn thì cái gì cũng ở trong số bảy: * Bảy bậc tu, bảy quả đức, bảy sức linh.
Bảy bậc tu gồm:
* Tu tại gia,
* Tu vái các thần thánh thông thường,
* Tu biết biến hóa,
* Tu biết thần biến, linh thiêng,
* Tu cần thần thánh, không mặc quần áo,
* Tu thiền định,
* Tu bậc thượng, làm thầy cả các phép tu trên, là vì nối gót đại diện cho đức Phạm thiên.

Ngày xưaẤn độ, họ thường quan trọng con số bảy, họ cho là huyền vi đến với con người. Cái gì họ cũng dùng và nghĩ đến số bảy như:
* Bảy vị tiên (Sapta-Rchirs),
* Bảy cảnh tiên (Sapta-Poura),
* Bảy hòn đảo tiên (Sapta-Douita),
* Bảy biển (Sapta-Samudra),
* Bảy sông linh (Sapta- Nady),
* Bảy núi linh (Sapta-Pariatta),
* Bảy chúng (Sapta-Coula),
* Bảy cảnh giới từ hạ đến thượng (Sapta-Loca),
* Bảy loại gồm cả trời đất thần thánh như: Jyus, Naranari, Viradji, Brahma, Vischnou-Siva

Riêng trong Phật giáo, ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã dùng tích trượng để đi vào địa ngục hướng dẫn cho thập loại chúng sanh đang bị đọa trong các cỏi ấy được hiểu rõ chánh pháp, được giải thoát lên các cảnh giới sung sướng hơn hay trực chỉ đến cảnh giác ngộ thành Phật. Mỗi khi ngài vào trong địa ngục, ngài dùng tích trượng gõ xuống đất thì các cửa ngục được mở ra, cho nên trong kinh có day: Chấn khai địa ngục chi môn.
Những vị sau khi đã đắc giới, liền được thừa truyền tích trượng. Trong khi nhận lãnh, các vị giới tử thầm niệm kệ chú sau đây:
Thiện tai khiết la,
Trí huệ công đức bổn,
Như pháp thọ trì giả,
Siêu đăng niết bàn ngạn.
Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra, bát để, na lật đế, na dạ bát nễ hồng phấn tra (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay chiếc tích trượng,
Gốc công đức, trí huệ,
Thọ trì chư chánh pháp,
Sớm lên bờ niết bàn.
Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra, bát để, na lật đế, na dạ bát nễ hồng phấn tra (3 lần)

Trên đây là kệ nhận tích trượng. Còn khi dùng đến thì câu chú y như vậy, nhưng câu kệ thì như sau:
Chấp trì tích trượng,
Đương nguyện chúng sanh,
Thiết đại thí hội,
Thị như thiệt đạo.
Nghĩa là:
Cầm giữ tích trượng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thiết đại hội thí,
Chỉ đạo như thật.

8. Đãy lọc nước:

Xuất xứ: Ngày khi đức Phật chứng thành đạo quả, ngài dùng huệ nhãn, xem thấy trong nước có vô số vi trùng (cũng là chúng sanh), ngài liền truyền dạy cho hàng đệ tử, nhất là hàng xuất gia đều phải có một cái túi bằng vải để lọc nước trước khi uống.
Định nghĩa: Đạo Phậtđạo từ bi. Đạo Phật tôn trọng mạng sống. Vì khi uống nước mà không dùng đãy lọc nước để lọc thì mắc phải tội ăn thịt chúng sanh. Chúng sanh được tôn trọng, trên từ bậc thánh nhơn chư Tăng, loài người, dưới đến các loài có chân, không chân hay có cánh, không cánh được giữ gìn, bảo vệ mà không nên sát hại.
Bởi thế cho nên, hàng xuất gia phải dùng những vật thực không liên hệ đến mạng sống của chúng sanh. Một khi đã phát tâm xuất gia, đã được thọ giới thì cần phải có đãy lọc nước. Tàu dịch là Lự thủy nang. Khi nhận thọ thì thầm nguyện:
Thiện tai lự thủy nan,
Hộ sanh hành tự cụ,
Xuất nhập thường đới dụng,
Phương hợp Bồ tát đạo.
Án, phạ tất ba ra ma ni tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay đãy lọc nước,
Vật bảo trợ mạng sống,
Ra vào thường dùng đến,
Mới hợp đạo Bồ đề.
Án, phạ tất ba ra ma ni tóa ha (3 lần)

9. Ngọa Cụ:

Ngọa tức là nằm. Dụng cụ dùng để ngồi nằm. Quý vị xuất gia thường dùng hằng ngày cho nên trong luật Trường hàng gọi là Nhật dụng.
Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, chư Tăng sống không lập chùa, viện, tịnh thất như ngày nay. Trong tay chỉ có bình bát, ba chiếc y, một tích trượng, một đãy lọc nước và một ngọa cụ mà thôi. Đi đâu mang tất cả những pháp phục ấy theo bên mình.
Ngày nay chư Tăng có chùa, có tòng lâm, có Phật học viện, có tu viện, tịnh thất, ... nên ít dùng đến ngọa cụtích trượng trừ khi tấn đàn truyền giới và trao giới cho giới tử phát tâm đăng đàn cầu giới pháp để tu. Ngọa cụ cũng được dùng trong lúc đăng đàn chẩn tế, nhưng được gọi là tọa cụ chứ không gọi ngọa cụ như trong luật tiểu. Khi dùng ngọa cụ thì thầm nguyện câu kệ và chú như sau:
Ngọa cũ ni sư đàn,
Trưởng dưỡng tâm miêu tánh,
Triển khai đăng thánh địa,
Phụng trì Như Lai mạng.
Án, a mật lật đế hồng phấn tra (3 lần)
Nghĩa là:
Ngọa cụ (tên) ni sư đàn,
Nuôi lớn lúa tâm tánh,
Mở ra lên đất thánh,
Phụng giử mạng Như Lai,
Án, a mật lật đế hồng phấn tra (3 lần)

Trên đây là những pháp khípháp cụ có từ thời đức Phật đã được tổ tổ thừa truyền cho đến ngày nay. Những gì được viết ra trong bài nầy hoàn toàn gần như chỉ dành riêng cho hàng xuất gia, nhưng phải cần cầu giới pháp, có thọ giới và đã đắc giới. Và tùy theo giới mà thọ dụng khác nhau như: Y, Bát, Tích trượngNgọa cụ, .... Ngoài ra, những pháp khí khác thì những vị tân xuất giaPhật tử tại gia đều có thể dùng được như nhau. Vậy bài nầy quý vị nào trong hàng tại gia được phước báo thọ dụng thì cũng nên tuân theo lời Phật dạy để hành trì đúng như pháp; nếu không thông thuộc, nên y chỉ chư Tăng.

Tài Liệu Liên Hệ:
Lịch sửý nghĩa của chuông trống Bát-nhã

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16322)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12001)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12604)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10128)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13821)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13599)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11880)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10700)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10894)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10983)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10745)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10409)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11078)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11880)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13049)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15194)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11887)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13048)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12565)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12177)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13412)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12667)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14396)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15550)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11057)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12096)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant