Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Phật Và Phật Học

19 Tháng Tư 201509:00(Xem: 6002)
Học Phật Và Phật Học
HỌC PHẬT VÀ PHẬT HỌC

Huệ giáo

Học Phật Và Phật Học

I\ Mở Đề:

Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoátgiác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràngcăn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.

Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động. Có như thế thì lời Phật dạy không phải là những bài pháp khô cứng, lỗi thời mang tính cổ xưa, mà chính là những lời dạy sinh động ngay trong cuộc sống, những bài pháp sống động luôn chuyển tải một tiềm năng thức tỉnh cho từng đối tượng nghiên cứu, tu tập.

II/ Nội dung:

1/ Định nghĩa:

a/ Phật học: Là một hệ thống tư tưởng của đức Phật, là tổng hợp tất cả lời dạy của đức Phật xuyên suốt trong suốt 49 năm hoằng pháp độ sanh, sau này được các vị tổ sư phân loại thành nhiều vấn đề, chương tiết. Nói chung, tất cả lời dạy của đức Phật được gói gọn một cách khoa học trong tam tạng kinh điển ( Tipitakà). Đây là một hệ thống lý thuyết bao gồm toàn bộ vấn đề liên quan đến nhân sinhvũ trụ, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, như là một bộ môn khoa học, được gọi là Phật học( Buddhist Studies). Đứng về mặt khoa học, Phật học được so sánh giống như các bộ môn khoa học khác như : Tâm lý học, Sử học, Luật học, Giáo dục học, Triết học, Xã hội học, Kinh tế học, Nhân chủng học..v.v. Do đó, để trở thành một nhà Phật học chúng ta cần phải học nhiều, biết nhiều về lời Phật dạy, tuỳ thuộc theo chương trình nghiên cứu, và phân loại đề ra. Tóm lại, Phật họcphương pháp học hỏi kiến thức của đức Phật (Tri).

b/ Học Phật: Là học về đức tánh, hạnh nguyện, nhân cách của đức Phật, học làm Phật; đây là ý nghĩa rốt ráo của đạo Phật, của những người Phật tử. Nghĩa là áp dụng lời Phật dạy vào ngay cuộc sống của mình, trong tư duy và hành động (Hành) để chuyển hóa toàn bộ từ một con người phàm phu thành một bậc giác ngộ.

2/ Phân loại:

a/: Phật học:

Là một hệ thống lời Phật dạy được thâu tóm biên soạn, chứa đựng trong tam tạng kinh điển: Kinh- Luật- Luận.

Kinh:

Được phân chia ra thành nhiều hệ thống, bộ phái.

Kinh Nguyên Thủy gồm có 5 bộ Nikaya dịch từ tiếng Pali cũng còn gọi là Kinh Điển Pali và bây giờ đã được dịch sang tiếng Việt nam.

Kinh A hàm gồm có 4 bộ A Hàm dịch từ tiếng Phạn về sau này dịch sang tiếng Trung hoa và đã dịch ra tiếng Việt nam.

Kinh Đại Thừa gồm có như kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Bát nhã, Hoa nghiêm, Lăng Nghiêm, Lăng Già, Kinh Kim Cương, Di đà.v.v.

Luật:

Luật Thanh Văn( Tỳ kheo giới).

Luật Bồ tát (Đại thừa giới).

Luận: Luận của Nguyên thủy Phật giáo.

Luận của Hữu bộ.

Luận của Đại thừa.

Từ tam tạng kinh điển này, về sau chúng ta thấy lại được các nhà Phật học phân loại thành nhiều ngành thuộc về Phật học như: Tâm lý học phật giáo; Sử học phật giáo; Luật học phật giáo; Triết học phật giáo; Xã hội học phật giáo; Chính trị học phật giáo; Phụ nữ học phật giáo; Kinh tế học phật giáo; Nghệ thuật học phật giáo, Âm nhạc Phật giáo; Mỹ học phật giáo; Kiến trúc phật giáo.v.v.

b/ Học Phật: Là học bao gồm cả: Đức tánh, Hạnh nguyện, Nhân cách của đức Phật, và học làm Phật.

Đức tánh: Đại Hùng- Đại Lực- Đại Từ Bi. Đại hùng là người đã đủ sức mạnh, hùng lực ở ngôi vô thượng, là Thầy của ba cỏi sáu đường. Là người đã vượt thoát lưới ma, phá tan màn vô minh, thoát ra sanh tử luân hồi. Đại lực là người có đủ trí tuệ phá tan được nghiệp chướng, phiền não mê hoặc sâu dày của mình và của chúng sanh. Đại từ bi là người có khả năng cứu độ chúng sanh trong chín nẽo luân hồi. Và còn rất nhiều đức tánh chi tiết khác nữa chúng ta cần phải học.

Hạnh Nguyện: Tự giác, Giác thaGiác hạnh viên mãn. Tự giác là người đã tự nguyện giác ngộ lấy chính mình. Giác tha là mang sự giác ngộ của mình giúp cho người khác giác ngộ. Giác hạnh viên mãn là mọi công hạnh đã trọn vẹn đầy đủ.

Nhân cách: Đức Phật là một mẫu người siêu việt trong tam giới. Là một Đạo sư khả kính của trời người. Là một biểu tượng của lòng vị thanhân ái.

Học làm Phật: là học những điều Phật đã học, đã tu và đã chứng, học cách để chuyển một chúng sanh thành một vị Phật. Học cách để làm sáng lên đức Phật sẳn có trong mỗi con người.

3/ Sự tương quan mật thiết giữa Phật học và Học Phật:

- Tu mà không học là tu mù; Học mà không tu là đãy sách: Có kiến thức về Phật học cho một phật tử đi trên con đường tầm đạo là một điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ. Bởi vì nếu chỉ có kiến thức thì đó thuộc phần phân biệt của tâm thức, không cẩn trọng chỉ làm tăng thêm bản ngã của mỗi người. Kiến thức chỉ mang lại sự hiểu biết nhưng không mang lại sự giải thoátgiác ngộ, sự dập tắt bản ngã, bứng rể phiền não nguồn gốc của khổ đau. Như vậy, cần phải lấy kiến thức đó, áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày, để đối trị thói quen, tật xấu, và nghiệp chướng phiền não của chính mình, thì đó mới chính là ích lợi thiết thực của việc học Phật và mới đủ khả năng xây dựng một xã hội tốt đẹp.

- Tri hành hợp nhất: Thế giới bao gồm cả hai mặt tương đốituyệt đối, sự việc nào luôn có hai mặt của chúng. Việc tu tập cũng thế, học mà không hành thì không có kết quả thiết thực. Việc học và hành trong đạo phật rất cần thiết, và luôn song hành với nhau, không thế tách rời được, cũng không thể thiếu cái này và cái khác mà nhất thiết phải được xem là một. Học mà không tu cũng giống như chúng ta đọc mớ lý thuyết đã chết, không có kết quả gì cả, ngược lại có tu tập thì lời dạy của Phật trở nên sống động, những bài pháp sống.

III/ Kết luận:

-Tin Ta mà không hiểu Ta là hủy báng Ta. Đây là lời nói của đức Phật nhắc nhỡ đến hàng đệ tử của Ngài, không đến với Ngài chỉ vì lòng tin, mà phải từ sự nhận định sáng suốt, có hiểu biết.

- Cần phải nổ lực tìm hiểu hơn nữa, hiểu rồi cần phải thực hành. Có thực hành thì mới mong có kết quả trong việc tu tập, ích lợi trong khi học đạo. Học đạo mà không thực hành giống như chúng ta đi ăn ở nhà hàng, chỉ đọc thực đơn mà không ăn. Học Phật mà không thực hành, áp dụng sự hiểu biếtđời sống thì việc học đạo chỉ đứng ngoài cửa ngõ chứ chưa vào được nhà Như lai.

Tài liệu tham khảo:

1-Phật học Phổ Thông. Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa biên soạn.

2-Phật học Tinh Yếu. Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên soạn.

3-Phật học Quần Nghi. Hòa thượng Thánh Nghiêm biên soạn, Thích Minh Quang dịch.

Câu hỏi tìm tòi suy nghĩ:

1-Phật học là gì? Học Phật là gì?

2-Sự tương quan giữa chúng trong đời sống tu tập?

3-Nội dung Phật học gồm những gì?

4-Thiết thực của việc tu học là gì? Hãy nêu một số kinh nghiệm cụ thể về mặt tiêu cực cũng như tích cực khi học phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21733)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27478)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29287)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20171)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20885)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29790)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22114)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24354)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21035)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21537)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29129)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23623)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33143)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39588)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19356)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24790)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29111)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22538)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20453)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24535)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31321)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26215)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31201)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20248)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22887)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30021)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21547)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20228)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20738)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28759)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34703)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22521)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21345)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19310)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35088)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37857)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21315)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27014)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27214)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24064)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20835)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34300)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22451)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25090)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 22935)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant