Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam Qui Ngũ Giới

27 Tháng Tư 201509:00(Xem: 6448)
Tam Qui Ngũ Giới
TAM QUI NGŨ GIỚI

HT Hư Vân
Dịch Việt: Kiến Châu - Như Thủy - Hạnh Đoan


Tam Qui Ngũ GiớiTâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo. Nếu theo vọng niệm điên đảo thì ra sáu cõi phàm, còn không chạy theo thì sẽ vào bốn cõi thánh. Thường quán sát sẽ thấy thánh hay phàm đều do tâm uế hay tịnh mà hiện. Tâm phàm phu xấu uế khiến hiện ra sáu đường thiện ác tội phước. Bốn cõi thánh do tâm thanh tịnh tạo thành nên uy đức tự tại quang minh, phước tướng dung mạo từ bi.

Khổ hay vui đều do tâm. Quý vị tự tạo nghiệp rồi thọ báo. Muốn biết ở cõi thánh hay phàm nhìn lại lòng mình sẽ rõ.

Phàm phu ngu mê chẳng hiểu tất cả do tâm tạo nên gặp nghịch cảnh thì trách trời oán người, gặp thuận cảnh thì kiêu căng, dương dương tự đắc. Hoặc cả đời làm thiện mà chiêu quả ác nên khởi tâm nghi, hay làm ác lại được hưởng quả lành nên hủy báng nhân quả.

Phải hiểu lý nhân quả rất thâm sâu. Sau khi ta gieo nhân, quả nào chín mùi thì tới trước. Đời nay tuy mình tạo nghiệp lành mà bị chiêu quả xấu thì phải hiểu là nhân ác trong quá khứ đã hội đủ duyên, đã đến lúc chín mùi nên quả trổ trước thì mình phải lãnh thọ. Còn nhân lành đời nay gieo do quả chưa chín nên hiện tại chưa được hưởng. Nếu tin sâu, hiểu rõ điều này thì sẽ không khởi tâm nghi. Từ vô thủy mê muội ta tạo biết bao tội nghiệp oan khiên sâu nặng, bây giờ quả chín tới lúc nó trổ thì ta phải nhận không thể trốn tránh. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sinh sinh tử triền miên, vì không biết chân tâm thường trụ thể tánh tịnh sáng, do sống với vọng tưởng nên mới bị luân hồi.”

Muốn thoát khổ ta phải làm sao? Không muốn thọ báo trong sinh tử thì phải tịnh hóa vọng tưởng. Vọng tưởng được tịnh rồi thì luân hồi dừng. Vì vậy tâm mê thì gọi chúng sinh, tâm giác gọi là Phật. Phật và chúng sinh khác nhau ở mê và ngộ. Phải biết tâm tánh diệu minh sáng suốt này ai cũng có. Phàm phu tuy có nhưng giống như vàng còn nằm trong mỏ bị đất cát phiền não bao phủ, nên không thể dùng được. Còn Phật do nhiều kiếp tu hành, cát đá lậu hoặc đã được lọc sạch thuần là vàng ròng tinh khiết nên đại dụng vô cùng, vì vậy mà được gọi là Thế Tôn, đấng Giác ngộ viên minh, vượt khỏi chướng ngại. Ta muốn tu thành Phật, trước phải xem nhân phát tâm của mình ra sao và phải trừ tận gốc phiền não. Gốc phiền não nếu sạch thì Phật tánh hiện. Nếu nhân tu không chánh thì phải chiêu quả báo cong vạy.

Bước tập tu đầu tiên là phải Qui y Tam bảo. Các điều ác không làm, chỉ làm toàn điều thiện. Rồi từ đó tu gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nếu không gieo nhân khổ thì quả khổ sẽ tiêu, vượt thoát ba đường khổ, siêu thăng cõi lành, nhập Phật thừa. Đây là nền tảng cho người tu Phật. Tam qui Ngũ giới là bờ bến của người đời, là diệu pháp ban vui cứu khổ. Tam quiquy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Qui y Phật: Phật là đấng giác ngộ hằng an lạc, xa rời khổ. Ngài hướng dẫn chúng sinh thoát mê về giác, vì thế ta nên quy y Ngài, hành giáo pháp Ngài để thoát khổ. Phật Thích Cagiáo chủ cõi Ta bà nên bước đầu tiên là phải quy y Phật.

Qui y Pháp: Tức nương theo pháp môn Phật truyền dạy, ba đời chư Phật đều hành theo pháp này mà thành tựu vô lượng công đức thanh tịnh. Nay ta muốn qui về nguồn cội, tịnh hóa thân tâm, dẹp trừ cấu uế thì phải qui y Pháp.

Qui y Tăng: Chánh pháp phải có người gánh vác hoằng truyền, xả thân vì đạo, xiển dương Phật pháp, dùng văn, tu, tư chứng quả thành Phật. Nếu Phật pháp không người thuyết giảng thì khó lãnh hội. Phật pháp thâm sâu khó hiểu phải nhờ chư Tăng giảng giải, nên ân đức các ngài rất lớn vì vậy phải qui y Tăng.

Tam bảo có ba: Nhất thể Tam bảo, Biệt tướng Tam bảoTrụ trì Tam bảo.

Nhất thể Tam bảo: là thể của nhất tâm. Phật là đấng giác ngộ, một niệm linh minh, tâm sáng suốttự tánh nhất thể Phật bảo. Phật đầy đủ ba đức: Phật, Pháp, Tăng.

Pháp còn nghĩa là quĩ trì, là gìn giữ qui tắc khuôn phép. Tự tánh nhất thể Tam bảo có thể gìn giữ khuôn phép của thế gianxuất thế gian.

Tăng là một đoàn thể tu sĩ hòa hợp. Tâm giác có khả năng hành trì tất cả pháp. Tâm là pháp, muôn pháp đều qui về tâm. Tâm đầy đủ Phật Pháp Tăng nên có tên là Nhất thể tam bảo. Chúng sinh mê tâm hướng ngoại tìm cầu nên trôi lăn trong sinh tử. Phật nhờ giác tâm này nên chứng được bồ đề.

Biệt tướng Tam bảo: Vì danh tướng của Phật pháp tăng không đồng. Phật là giác ngộ bản tâm, thấu đạt thật tướng, gọi là tự giác. Dùng pháp tu chứng này giác ngộ cho tất cả chúng sinh, gọi là giác tha. Tự giác giác tha đều đầy đủ, gọi là giác hạnh viên mãn. Ba đức này tròn đầy nên thành Phật. Đây là Biệt tướng Phật bảo.

Phật tùy cơ thuyết pháp kinh, luật, luận khác nhau là Biệt tướng Pháp bảo. Theo giáo lý tu hành trình tự tu chứng không đồng, gọi là Biệt tướng Tăng bảo.

Trụ trì Tam bảo: Sau khi Phật nhập diệt, tượng Phật dù được làm bằng xi măng, gỗ, thạch cao hay tranh vẽ ... đều là ruộng phước cho chúng sinh. Nếu biết cung kính hình tượng như Phật con tại thế thì công đức không thể nói hết. Vì trụ trì không tuyệt mất nên gọi là Trụ trì Phật bảo.

Tất cả kinh điển chép lời dạy của Phật được lưu truyền giáo hóa chúng sinh không ngừng, khiến chúng sinh hành trình theo đó, ly khổ được vui, vì vậy nên gọi là Trụ trì pháp bảo.

Người xuất gia cạo tóc, mặc pháp phục Như Lai, xiển dương đạo pháp, hóa độ chúng sinh, nối tiếp hạt giống Phật, là Trụ trì Tăng bảo.

Trụ trì, Biệt tướngNhất thể ... đều được gọi là bảo (quí báu) vì không bị pháp thế gian làm tổn hại hay phiền não làm nhiễm ô. Bảy báu thế gian như vàng, bạc, lưu ly, san hô, xà cừ, mã não, hổ phách được coi trọng, song hưởng dụng một thời gian rồi cũng hết, vì chúng chỉ giúp cho lúc sống chứ không thể độ tự. Thế nhưng Tam bảo có thể giúp chấm dứt vô biên sinh tử, khiến người xa lìa khổ não rầu lo, được hạnh phúc an vui mãi.

Tam bảo. tuy gọi nhiều tên nhưng xuất pháp từ nhất tâm, vì tất cả do tâm tạo. Tâm nhiếp thọ tất cả, vốn viên mãn đầy đủ giống như viên ngọc như ý. Vì vậy mới nói là Tự qui y Phật, Tự qui y pháp, Tự qui y tăng. Chứ không hề nói qui y tha, là tựa nương bên ngoài.

Qui, nghĩa là xoay vào, là quay về nguồn cội. Sáu căn chúng sinh xuất phát từ một tâm, vì bỏ gốc chạy theo sáu trần, nên phải thu nhiếp sáu căn quay về tâm, nên gọi là qui mạng. Vì vậy qui y cũng có nghĩa là qui mạng.

Y, là y theo, nương theo. Do chúng sinh chạy theo âm thanh sắc tướng nên bị trôi lăn trong biển khổ không có chỗ nương. Nhờ chọn Tam bảo làm thầy nên có thể thoát u mê, phát tâm bồ đề, hành đạo tu giác, cho đến khi thành Phật.

Qui y Tam bảo xong thì phải y theo pháp mà tu hành để thoát khỏi sinh tử, thoát khỏi phiền não trói buộc của thế gian. Bước nhập môn đầu tiên, ngoài năm giới cấm ra không còn phương pháp trợ giúp nào khác. Do vậy mới có câu: «Nếu không giữ năm giới thì đường sinh lên làm trời người cũng bị cắt đứt»

Do vậy mà giới là nền tảng quan trọng giúp tạo điều thiện, phế bỏ hạnh ác, là cội nguồn của đức hạnh, là phương cách giúp người ta siêu phàm nhập thánh. Nhân giới sinh định. Từ định sinh huệ. Nhờ giới, định, huệ mà thành Chánh giác. Nên nói: «Giới là cội gốc của đạo bồ đề vô thượng.» Phật phương tiện khai mở pháp môn. Đầu tiên thuyết Tam qui y, tiếp đến dạy Ngũ giới, chế ra giới Đại thừa, Tiểu thừa v.v... Do căn cơtâm tánh chúng sinh không đồng nên giới có từ cạn đến sâu, từ thô đến tế nhưng cứu cánh thì không khác.

Năm giới: không sát, đạo, dâm, vọng, không dùng các chất gây nghiện làm thần trí hôn mê. Năm giới này là căn bản, bắt buộc đệ tử Phật phải học và tuân giữ khi nhập môn. Đây là cửa ngõ đưa đến thành tựu. Năm giới này là điều phải học, phải hành, phải truyền bá. Nam nữ cư sĩ đều phải hành trì. Năm giới này tạo nên vô lượng công đức. Vì vậybước đầu tiên người sơ cơ học Phật phải qui ythọ trì ngũ giới. Nền tảng này không thể thiếu.

Năm giới này nhà Nho gọi là Ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nghĩa là, người nhân từ thì không giết hại. Người nghĩa khí thì không trộm cắp. Người có lễ nghĩa thì không tà dâm. Người trí không dùng chất say gây nghiện. Người tín không nói láo.

Người Phật tử giữ tròn năm giới thì không muốn hoàn toàn cũng thành người hoàn toàn, không mong thành nhân đức cũng thành nhân đức. Không cầu lễ nghĩalễ nghĩa tự thành, tâm trí tự nhiên sáng suốt, sống có uy tín. Nhân phẩm trở nên tôn quý, được người trọng vọng ái kính.

Giới thứ nhất là không sát sinh :

Mạnh Tử nói: « Nghe tiếng vật kêu la chẳng nỡ ăn. » Mạnh Tử còn nói thế, chúng tađệ tử Phật sao lại mê mờ, khởi tâm giết hại chiêu lấy quả khổ vô biên về sau? Do vậy mà Phật chế giới không sát sinh cốt để ngăn khổ cho chúng ta. Các đệ tử Phật nếu muốn hành đạo, bước đầu tiên phải nuôi dưỡng lòng từ, không được sát sinh. Nếu giữ giới này thì không còn bị luân hồi đền mạng. Ngoài việc ỷ mạnh hiếp yếu, tham mùi vị hoặc vì tiền tài kiếm sống mà sát sinh, giết hại phát xuất từ ác tâm. Nếu ta tạo nghiệp sát, cứ mạnh tay giết chóc thì tự kết oán cừu. Kinh Lăng Nghiêm nói: «Người chết thành dê. Dê chết thành người. Do ăn nuốt nhau mà quả báo vần xoay, ác nghiệp dẫy đầy, chiêu quả xấu không có ngày dứt.» Giết người phải đền mạng, giết súc vật cũng phải đền mạng.

Quý vị hãy nhớ tích xưa trong sử, ngày mà vua Tỳ Lưu Ly giết sạch dòng họ Thích Ca, đầu đức Phật cũng bị nhức thống thiết. Nguyên nhân từ đâu? Đó là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi dòng họ Thích là dân làng chài, và đức Phật Thích Ca là một cậu bé trong làng chài đó. Khi dân chài bắt được con cá lớn sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Phật đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái. Con cá lớn đó chính là tiền thân vua Lưu Ly. Khi sinh làm người đã giết sạch dòng họ Thích Ca, còn đức Phật cũng bị quả báo nhẹ là bị nhức đầu.

Chuyện này không thể không tin - báo ứng rất rõ ràngđáng sợ. Quý vị nên quán sát cho kỹ. Vì lý do này mà Phật cấm sát sinh.

Không những Phật từ bi với con người mà còn thương cả đến loài trùng kiến nhỏ nhoi. Bởi vì trong cái nhìn của Phật, tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Kinh Phạm Võng nói: «Tất cả nam nhân là cha. Tất cả nữ nhân là mẹ. Chúng sinh trong sáu đường trầm luân lưu chuyển từng làm cha mẹ quyến thuộc của nhau.» Vì vậy mà giết hại chúng sinh cũng xem như là giết hại cha mẹ.

Người đời không biết, không tin thuyết này nên mặc tình mặc sức giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Do vậy Thế Tôn mới chế giới cấm giết, bởi tất cả sinh linh đều có Phật tính. Quá khứ họ từng là cha mẹ chúng ta, tương lai cũng có khả năng thành Phật, sao ta lại dám giết hại? Chúng ta không nên có tâm giết hại.

Hiện nay nhân loại giao tranh đã chế đủ thứ vũ khí giết người, sát phạt nhau bất kể là trên không, đất bằng hay dưới nước. Lòng người ngày càng hiểm ác, đường đời ngày càng đảo điên. Chuyện tương sát tương tàn này đến bao giờ mới dứt. Nếu không tìm cách cứu vãn thì thế gian này sẽ thành biển khổ sục sôi lòng thù hận. Người trí nhìn không khỏi đau lòng. Quý vị phải cố gắng gìn giữ hòa bình, nổ lực cứu vãn nhân tâm mê muội, giúp mọi người trở về nẻo chính. Hãy trọng lòng nhân chứ đừng trọng vũ lực. Đừng tham đắm mùi vị ngon hay vì lợi mà sát hại. Đừng bao giờ khởi tâm sát. Nghiệp sát nếu ngưng thì kiếp họai sẽ dừng. Dưỡng lòng nhân là hành đúng đạo lý.

Quý vị cần quán sát cho kỹ, phải tin sâu nhân quả, phải hiểu nhân quả không sai như bóng theo hình. Nếu tin sâu nhân quả, thì trong lòng dù chưa sửa đổi, hạnh thiện cũng đã thành, vì mỗi khi hành động nghĩ suy, quý vị không thể không cân nhắc cho nên hành vi tự nhiên theo thiện.

Quý vị nên biêt những tai họa đời này là do nhân ác trong quá khứ quý vị đã gieo. Các tai nạn như binh đao, chiến tranh, lụt lội, hỏa tai, địa chân v.v... đều do quả đã chín mùi. Tới lúc trổ thì quý vị phải nhận. Nhân thiện chiêu quả thiện. Bằng chứng trong hai trận thế giới chiến vừa qua, chỉ có Hoa kiều ở Úc là được bình an. Vì sao? Vì trong tiền kiếp, họ không tạo nghiệp sát. Những ai thường gặp tai nạn là do ác nghiệp, biệt nghiệp chiêu cảm. Quý vị là Phật tử thì phải hiểu thấu suốt lý nhân quả khó nghĩ lường này. Nếu tin sâu nhân quả quý vị sẽ không dám giết hại. Nếu người trên thế gian này chịu giữ giới không giết hại thì tất cả vũ khí đều hóa ra vô dụng.

Giới đầu tiên, Phật cấm không sát sinh là vì muốn mọi ngườilòng nhân, sống biết thương người, hộ vật, tự giải khổ cho mình và người, ai ai cũng được sống trong cảnh an lạc.

Giới thứ hai là không trộm cắp:

Phật dạy ngay cả cây kim cọng cỏ, người không cho chớ lấy. Song chúng sinh chỉ thấy lợi trước mắt. Do tham tâm không biết đủ. Tội nặng nhất là trộm cướp và lạm dụng của mười phương tăng chúng. Ngay cả vật dụng của cha mẹ, sư trưởng không cho, chớ nên lấy, nếu lấy cũng là phạm tội nặng.

Nếu quý vị thâm tín nhân quả, chẳng phạm mảy tơ thì giới hạnh tự thành. Ai cũng được vậy thì đêm ngủ chẳng cần đóng cửa.

Giới thứ ba là không tà hạnh:

Người xuất gia thì ly dục hẳn, còn người tại gia thì không được tà dâm. Đối với vợ, chồng người nên giữ lòng ngay thẳng đoan chính. Do nhân duyên ái dụcchúng sinh trăm kiếp ngàn đời bị trầm luân. Cũng từ ái dục mà phát sinh trộm cắp, giết hại. Thường giữ giới không tà dục tự nhiên uy nghi, đức hạnh tự thành lập, gia đình vui hòa thủy chung.

Giới thứ tư là không nói láo:

Người nói láo thường vì hư danh lợi dưỡng. Cũng không được dối xưng mình chứng thánh. Đây là tội đại vọng ngữ, sẽ bị đọa địa ngục Vô gián. Người học đạo phải cẩn trọng. Giữ giới này thì được người kính và có uy tín lớn, không cầu danhdanh thơm tự đến, không cầu lợi mà phúc tự về.

Giới thứ năm là không uống rượu:

Bao gồm không dùng những chất có tính gây say, nghiện hay làm thần trí hôn mê. Người buôn bán các vật cấm này cũng bị quả báo 500 đời không có tay. Phạm giới này thần trí mê mờ ắt sẽ làm nhiều điều bại hoại mất tư cách, không những phạm thêm nhiều tội ác mà còn gieo nhân ngu si vô số kiếp về sau. Do vậy mà Phật cấm.

Nếu quý vị khéo điều tâm, không theo vọng tưởng, thì ác nghiệp chẳng sinh. Nhiếp tâm là giới. Nhờ giới sinh định. Do định có huệ. Quý vị khéo điều tâm thì tham sân si chẳng khởi, ác nghiệp chẳng còn tạo. Tự mình nhiếp tâm làm muôn hạnh lành, nhờ vậy công phu tăng tiến, bản thân được an lạc và còn gieo ảnh hưởng đến người khác, cảm hóa họ thực hành theo.

Nhờ hồng ân Phật, quý vị được qui y Tam bảo, được thọ năm giới cắm, giải khổ cho mình. Ân chư Phật lớn lao vô ngần, dẫu nát thân này, quý vị cũng chưa đền trong muôn một.

Nghe tôi giảng về Tam qui Ngũ giới rồi thì quý vị hãy thực hành. Hãy nghĩ xem, một thôn làng nếu trăm gia đình có được mười người giữ ngũ giới thì mười người này được an lạc. Trăm người tu thập thiện thì trăm người sống tương kính vui hòa. Nếu nhà nhà y theo pháp Phật tu hành thì nhà nhà đều nhân từ sống an.

Hành một việc lành là loại được một việc ác, tiêu đi một hình phạt. Cả nước thực hành điều lành thì cả nước an, được vậy thì vị nguyên thủ quốc gia không cần nhọc nhằn lao tâm trị nước mà vẫn có thể ngồi yên, toại hưởng thái bình. Thế nên, quý vị thọ trì năm giới không những làm theo lời Phật dạy mà còn giúp ích nhiều cho đất nước mình. Bản thân quý vị chẳng những là một công dân không phạm pháp mà còn đóng góp đức hạnh duy trì sự thịnh trị, bình an cho nước nhà .

Đây là những điều kiện căn bản , bắt buộc người Phật tử phải tuân theo, xin quý vị hãy kiên tâm hành trì, không những huân vào cho mình tập khí tốt, khiến hạt giống Phật được trưởng dưỡng càng sâu. Khi hạnh giải tương ưng đầy đủ thì quý vị đến giác ngạn.

Cầu mong quý vị từ đây về sau luôn có chánh kiến, chánh ngữ, chánh hạnh, chánh tư duy, hằng tinh tấn tu hành, không những quý vị tự tu mà còn khuyên bảo người khác tu để mình và người cùng dứt khổ. Được vậy thì ách nạn nào mà chẳng tiêu trừ. Thọ tam qui ngũ giới tức là quý vị chẳng làm điều ác, luôn hành điều lành. Khéo điều phục tâm. Được vậy thì quý vị đã tạo công đức vô lượng, quả Phật nhất định có kỳ.

(Thiền Viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16657)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13262)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12728)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13566)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11737)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17762)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22640)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13472)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15552)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16080)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11372)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15686)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13167)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21935)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16170)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19143)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17666)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17090)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18587)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19019)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14388)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23086)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28519)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15177)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13686)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16445)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143521)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16319)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17416)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47393)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39105)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15789)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23101)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16735)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14289)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13876)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17215)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14354)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16908)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27938)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50159)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38466)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28529)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52157)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35816)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32854)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50750)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63651)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39377)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38426)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36561)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32199)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46666)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 40034)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant