Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Bảy : Các Thiện Căn Phát Sinh

07 Tháng Mười 201000:00(Xem: 3797)
Phần Bảy : Các Thiện Căn Phát Sinh

PHẦN BẢY
CÁC THIỆN CĂN PHÁT SINH

Hành giả khi thực hành Chỉ Quán như vậy, do quán "tùng giả nhập không, thì trong lúc tọa thiền, thân tâm sáng suốt thanh tịnh, lúc đó sẽ có các thứ thiện căn phát sinh, cần nên nhận biết.

Những thứ thiện căn phát sinh có hai thứ:

1)Những thiện căn ở ngoài như: bố thí, trì giới, hiếu thuận, cúng dường Tam Bảohọc hỏi Phật Pháp... nếu không chân chánh tu hành theo Phật pháp thì có thể lẫn lộn với Ma cảnh.

2)Những tướng thiện căn phát sanh tự bên trong, nghĩa những thiện căn do áp dụng các pháp môn thiền định.

Phân biệt các tướng nầy chia làm ba phần:

a/ Chỉ rõ các tướng thiện căn phát sinh:

Có năm thứ khác nhau:

1- Tướng thiện căn phát sanh trong lúc thực hành điều hòa hơi thở, hành giả do khéo thực hành Chỉ Quán nên thân tâm điều hòa, vọng niệm dừng nghỉ, nhân đó tự thấy tâm lân lân vào định, phát sinh những định dục giới và định vị đáo địa... định tâm yên ổn, thân tâm rỗng không vắng lặng, không thấy có tướng mạo. Về sau, hoặc trải qua một vài lần tọa thiền, cho đến một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, giữ vững định tâm, không lùi không mất, thì ở trong định bỗng thấy thân tâm phát ra tám thứ cảm xúc, nghĩa là thấy thân có các tướng: đau, ngứa, lạnh, nóng, nhẹ nhàng, nặng nề, rít, trơn...Trong lúc tám cảm xúc phát ra, thân tâm vẫn yên ổn trong định, nhẹ nhàng, vui khoẻ, khoan khoái, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được. Được như thế thì biết đó là tướng thiện căn thiền định căn bản đương phát ra trong lúc điều hòa hơi thở. Hành giả hoặc khi trong định dục giới và định vị đáo ?i?a, bỗng nhiên nhận rõ hơi thở ra vào dài, ngắn, các lỗ chân lông khắp thân thể đều rỗng thưa và dùng được tâm nhãn thấy cả ba mươi sáu vật trong thân, cũng như mở kho thấy các thứ thóc, đậu.tâm rất vui mừng, vắng lặng yên ổn. Đó là tướng thiện căn đặc thắng phát sinh trong lúc điều hòa

hơi thở.

2- Tướng thiện căn phát sinh do phép quán bất tịnh. Người tu hành, nếu trong lúc ở trong định dục giớivị đáo địa, thân tâm rỗng không vắng lặng, bỗng thấy thân người khác chết, phình lên hư nát, tan ra nước, chảy đi, còn lại một đống xương trắng, và tâm vừa thương vừa mừng, nhàm chán những điều ưa thích trước kia, đó là tướng thiện căn chính tưởng phát ra. Hoặc trong lúc nhâ?p định, bỗng thấy những vật bất tịnh trong thân, cả mình phình trướng tan nát, chỉ còn xương trắng từ đầu đến chân. Thấy như thế rồi, định tâm an lành, giác ngộ vô thường, nhàm chán ngũ dục, không chấp ngã nhân, đó là tướng thiện căn bội xã phát ra. Hoặc ở trong định, thấy cả trong thân, ngoài thân, tất cả loài cầm thú, cho đến áo mặc, đồ ăn, nhà cửa, núi rừng.. đều bất tịnh, đó là tướng thiện căn đại bất tịnh phát ra.

3- Tướng thiện ăn do tự tâm phát sinh, Hành giả nhân thực hành Chỉ Quán, được các định dục giới, hoặc định vị đáo địa, bỗng nhiên phát tâm nghĩ thương chúng sanh, hoặc duyên với việc người thân được vui phát sanh định tâm, trong tâm vui vẽ, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được, hoặc duyên với việc người trung gian, kẻ thù, cho đến thập phương chúng sanh thuộc các loài khác, thấy họ được vui vẻ mà phát định tâm. Đến lúc xuất định, tâm thường vui vẻ, thấy bất cứ người nào, nhan sắc thường hòa nhã. Đó là tướng thiện căn do từ tâm phát ra. Về bi, hỉ và xả cũng có những tướng thiện căn phát sinh như từ tâm vậy.

4- Tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh. Hành giả nhân lúc thực hành Chỉ Quán, khi được các định dục giới và định vị đáo địa, bỗng được giác ngộ, xét tìm các nhân duyên vô minh, hành...trong ba đời không thấy có nhân, có ngã, phá được các kiến chấp, trí tuệ mở bày, tâm sinh pháp hỷ, không còn nghĩ những việc thế gian, hoặc xét trong năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, không thấy nhân ngã. Đó là tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh.

5- Tướng thiện căn do niệm Phật phát sanh. Hành giả khi đắc định, trong tâm vắng lặng, bỗng nhớ nghĩ đến công đức tướng hảo của chư Phật, không thể nghĩ bàn. Cho đến những tướng thập lực, vô úy, bất cộng, tam muội, giải thoát thần thông biến hóa, phổ độ chúng sanh, và vô lượng vô biên công đức của chư Phật đều không thể nghĩ bàn. Phát khởi ý niệm như thế, thì sanh tâm kính yêu, thân tâm vui vẻ, thanh tịnh yên ổn, không có các ác tướng. Khi xuất định rồi, thân thể nhẹ nhàng, công đức tự giác rất lớn. Đó là thiện căn do niệm Phật phát sanh.

Lại nữa, hành giả nhân lúc tu Chỉ Quán, thân tâm vắng lặng trong sạch, hoặc phát ra những tướng vô thường, khổ, không, vô ngã, những tướng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiện, cho đến những tướng không, vô tướng, vô tác và được các Bồ-?ề đạo phẩm, các Ba-la-mật, các thần thông biến hóa.. Đó đều là những tướng thiện căn do các pháp môn phát sanh. Vì thế trong kinh có dạy: "Kiềm chế tâm lại một nơi thì không việc gì không làm xong."

b/Phân biệt chân, ngụy:

Đoạn nầy chia làm hai phần:

1- Nhận rõ những tướng phát sanh do thiền định tà ngụy. Hành giả khi phát ra những thiền định như trên, hoặc nhân những pháp phát ra trong thiền định, mà thân tâm lay động, hoặc thân nặng như có vật đè lên, hoặc thân nhẹ như muốn bay lên trên không, hoặc thân hình như xoay tròn, hoặc thân mệt mỏi khó chịu, hoặc nghe lạnh buốt, hoặc nghe nóng bừng, hoặc thấy những cảnh giới ky? lạ, hoặc tâm mờ tối, hoặc khởi các ác niệm, hoặc tâm bị tán loạn, nghĩ các việc phức tạp, hoặc vui mừng nhảy nhót, lo rầu đau thương, hoặc có những cảm xúc làm cho mình ghê rợn, hoặc vui quá say mê. Khi phát sanh những tà pháp như thế, thì đó là những tướng thiền định tà ngụy. Nếu người ưa đắm những tà ngụy đó thì phần nhiều bỏ mất sơ tâm, hóa ra điên cuồng, lạc vào các thứ ngoại đạo, có khi các quỷ thần . biết hành giả chấp trước tà pháp, lại giúp thêm sức, phát huy các tà định, làm cho hành gia có biện tài, thần thông, lừa gạt thế gian, làm cho nhiều người tín phục, mà trong tâm thì vẫn điên đảo, chuyên làm những việc quỷ thần, mê hoặc người đời. Người tu hành như thế, quyết không gặp được Phật và phải đọa trong ác đạo quỷ thần. Nếu lại làm nhiều việc ác thì phải đoạ địa ngục.

Vì thế ha?nh giả thực hành Chỉ Quán, nếu nhận được ác tướng thiền định tà ngụy, liền khước từ ngay. Khước từ bằng cách nào? Nếu biết là giả dối thì dùng chánh tâm không nhận, không trước, các tướng đó sẽ tiêu diệt, hoặc dùng chánh quán mà phá trừ, các tướng ấy sẽ diệt vong.

2 - Nhận rõ các tướng của thiền định chân chánh. Hành giả nếu trong lúc tọa thiền không có những tướng tà ngụy như trên, khi mỗi tiếng thiền định phát ra, liền biết nó kết hợp với định tâm, trong tâm rỗng sáng thanh tịnh, vui đẹp yên lặng, không có các điều che lấp, thiện căn phát sanh thì lòng tin kính càng tăng trưởng, trí tuệ rõ ràng, thân tâm như hòa, rỗng không vắng lặng, thoát ly thế gian, vô vi, vô dục, xuất định nhập định tự tại, tự do. Đó là tướng thiền định chân chính phát ra. Ví như thân cận người ác thì thường bị va chạm chọc tức. Ngược lại, thân cận người lành thì càng lâu, quan hệ càng tốt đẹp. Hành giả cần phân biệt tà chánh rõ ràng để khỏi bị lầm lạc.

c/Dùng chỉ quán để tăng trưởng các thiện căn:

Nếu trong lúc toạ thiền, các thiện căn phát ra, thì nên dùng hai pháp Chỉ Quán tu tập khiến cho tăng trưởng. Lúc nào nên dùng phép Chỉ, thì dùng phép Chỉ, lúc nào nên dùng phép Quán, thì dùng phép Quán, tùy nghitu hành như trước đã nói.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31244)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18560)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25136)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23764)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28930)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20859)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31445)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25546)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22521)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25714)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23272)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25738)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23720)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40599)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23347)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22443)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22089)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23502)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24308)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41094)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18977)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20474)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27724)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38113)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24475)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22693)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26525)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53575)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23596)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30837)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21052)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38782)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20528)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20581)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27049)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28079)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37147)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55168)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37979)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14544)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10644)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant