Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con đường

24 Tháng Tám 201100:00(Xem: 15687)
  • Tác giả :
Con đường

BÀI 1 – CON ĐƯỜNG
Người viết: Kan

Con kính đảnh lễ Đức Thế Tôn đã truyền dạy con đường tới giác ngộ;
Con kính đảnh lễ các bậc trí nhiều thế hệ trong nhà Phật đã bảo tồn những lời dạy của Đức Phật đến hôm nay, để con được có duyên tiếp cận;
Con kính đảnh lễ các học giả nhiều thế hệ đã nghiên cứu khách quan về những gì liên quan tới đạo Phật, để hôm nay con được có duyên biết tới một số vấn đề trong nhà Phật một cách khách quan;
Con kính đảnh lễ những vị đồng đạo, do nhiều nhân duyên đã giúp con thấy được nhiều điều trước kia con chưa thấy.

 

Nhập đề

Có điều gì cơ bản để nói về Đức Phật, bậc giác ngộ? Đối với người viết, Ngài là một con người thực tiễn. Sinh ra và trưởng thành trong một môi trường tiện nghi, có thể nói Ngài không thiếu thứ gì phục vụ cho mình, hay nói cách khác là cho một cái Ngã (của mình), quan niệm phổ biếnẤn Độ bấy giờ. Vậy, Ngài đã trải nghiệm hướng tới Hữu Ngã, nhưng Ngài không thỏa mãn với một đời sống Hữu Ngã như vậy.

Rồi Ngài lên đường làm một du sĩ. Thấy cái nguy hiểm của Hữu Ngã, Ngài đã thực hành tu khổ hạnh trong sáu năm để hướng tới Vô Ngã. Ngài đã trải nghiệm hướng tới Vô Ngã, nhưng Ngài không thỏa mãn với một đời sống Vô Ngã như vậy, nên Ngài từ bỏ khổ hạnh. Sau khi từ bỏ khổ hạnh, Ngài thành tựu giác ngộ.

Như vậy, Ngài đã thành tựu giác ngộ từ khi sống không Hữu Ngã cũng không Vô Ngã, hay nói đúng hơn, Ngài không dính mắc vào bất cứ điều gì liên quan tới Hữu Ngã – Vô Ngã. Con đường không dính mắc, đó chính là Trung Đạo. Nên ta không ngạc nhiên khi Trung Đạo chính là điều đầu tiên được Đức Phật dạy cho chúng ta.

Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.

1) VÔ NGÃ HAY HỮU NGÃ?

Giới Phật tử ngày nay phần lớn cho rằng Đức Phật khẳng định con ngườiVô Ngã. Còn một số vị băn khoăn không biết thực sự Ngài có khẳng định về Vô Ngã hay không? Bởi trong kinh điển vẫn còn lưu nhiều dấu vết cho thấy Ngài không trả lời rõ ràng về điều đó.

Vậy câu trả lời thực sự là gì?

Ta hãy xét một ví dụ. Người A cầm một cục đá và hỏi người B:

1) A: Cục đá này là đực?

 B: Không phải!

2) A: Vậy nó là cái?

B: Không phải!

3) A: Vậy nó vừa là đực vừa là cái?

B : Không phải!

4) A: Vậy nó không là đực (phi đực) cũng không là cái (phi cái)?

B: Không phải!

A: Không thể như thế được! Không thể có một cục đá không là đực; không là cái; không vừa đực vừa cái; không phi đực cũng không phi cái được!

Và A quyết định tiếp tục đi tìm câu trả lời cho tính chất đực – cái (hoặc phi đực – cái) của cục đá. Ta dễ nhận thấy A đang hoài công theo đuổi một điều phù phiếm, không có ích lợi gì cho cuộc sống của chính A.

Ở đây, ta thấy rằng nếu người A nhất định cho rằng cục đá phải có (hoặc không có) tính chất đực – cái theo một mức độ nào đó, thì A không thể hiểu được câu trả lời của B. Ta thấy rằng A đã tưởng tượng ra một tính chất đực – cái (hoặc phi đực – cái ) cho cục đá, và bị mắc kẹt trong tà kiến đó.

Câu chuyện trở nên tương tự trong nhà Phật khi ta thay thế:

Cục đá = con người;

Đực = Hữu Ngã;

Cái = Vô Ngã;

1) A: Con người là Hữu Ngã?

B : Không phải!

2) A: Con người là Vô Ngã?

B: Không phải!

3) A: Con người vừa Hữu Ngã vừa Vô Ngã?

B: Không phải!

4) A: Con người không Hữu Ngã cũng không Vô Ngã?

B: Không phải!

B ở đây chính là Buddha, Đức Phật của chúng ta. Và câu trả lời của Ngài chính là con đường Trung Đạo.

Người A nếu nghe được câu trả lời của Đức Phật, và từ bỏ được bất cứ tà kiến nào liên quan tới Hữu Ngã – Vô Ngã, vị ấy sẽ không còn dính mắc, không chấp thủ vào nó nữa; vị ấy đang đi trên con đường hướng tới giác ngộ.

Ngược lại, nếu vị ấy vẫn còn dính mắc vào tà kiến Hữu Ngã – Vô Ngã đó, vị ấy chưa thể giác ngộ.

2) THƯỜNG CÒN HAY VÔ THƯỜNG?

2.1) Người A già hay trẻ?

Ta hãy xét một ví dụ. Hãy hỏi về một người A bất kì.

1) A già (phải không)?

2) A trẻ (phải không)?

3) A vừa già vừa trẻ (phải không)?

4) A không già cũng không trẻ (phải không)?

 Ở đây, ta thấy rằng bốn câu hỏi này đều không có câu trả lời, nếu chỉ xét riêng một mình A. Phải có ít nhất một đối tượng khác, là một người B khác để so sánh.

Nếu có 1 người B khác để so sánh, thì ta trả lời được câu 1, 2, 4. VD:

- B lớn tuổi hơn A thì: 1) Không. 2) Đúng.

- B bằng tuổi A thì: 4) Đúng.

Nếu có 2 người C, D để so sánh với A thì ta trả lời được câu 1, 2, 3, 4.

2.2) Vũ trụ thường còn hay vô thường?

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta hãy thay:

A = vũ trụ.

Già = thường còn.

Trẻ = vô thường.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Vũ trụ thường còn?

2) Vũ trụ vô thường?

3) Vũ trụ vừa thường còn vừa vô thường?

4) Vũ trụ không thường còn cũng không vô thường?

Đây chính là bốn câu hỏi các du sĩ ngày trước hay hỏi Đức Phật. Ta cũng biết rằng Đức Phật giữ im lặng trước bốn câu hỏi này. Bây giờ ta đã hiểu lí do vì sao. Vì vũ trụ bao trùm tất cả. Không thể có một đối tượng tương đương với nó để so sánh, nên bốn câu hỏi kia không có câu trả lời. Đức Phật gọi loại câu hỏi như vậy là phù phiếm, là hí luận.

Như ví dụ ở phần 1, bốn câu hỏi này có thể trả lời được nếu có một đối tượng để so sánh với vũ trụ. Ta hãy giả địnhít nhất 2 vũ trụ, A và B tách biệt nhau để so sánh. Tuy nhiên, nếu công nhận có 2 vũ trụ A và B tách biệt nhau thì lập tức xuất hiện nhiều nan đề khác:

- Cái X1 gì nằm giữa A và B để chúng tách biệt nhau?

- Cái X2 gì nằm giữa A và X1?

- Cái X3 gì nằm giữa A và X2?

..........................

- Cái X1001 gì nằm giữa A và X1000?

..........................

Ta thấy, từ một hí luận sẽ tạo ra vô số hí luận khác. Và đúng như Đức Phật đã răn dạy trong ví dụ mũi tên độc, chắc chắn chúng ta sẽ chết trước khi có câu trả lời cho chuỗi hí luận vô tận như vậy. 

2.3) Như Lai tồn tại hay phi tồn tại?

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta hãy thay:

A = Như Lai.

Già = tồn tại.

Trẻ = phi tồn tại.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Như Lai tồn tại?

2) Như Lai phi tồn tại?

3) Như Lai vừa tồn tại vừa phi tồn tại?

4) Như Lai không tồn tại cũng không phi tồn tại?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi trên cần phảiít nhất một đối tượng để so sánh với Như Lai. Có thể so sánh được hay không?

Ta biết Như Lai, bậc thành tựu giác ngộ, không dính mắc bất cứ điều gì, không tranh luận hơn thua, không so sánh với bất cứ ai trên đời. Vậy làm sao ta có thể gán một đối tượng nào đó để so sánh với Như Lai? Nếu ai muốn làm công việc đó, họ cứ làm, còn bậc Như Lai như đã biết, chỉ giữ im lặng trước những so sánh như vậy.

2.4) Vô tưởng phi vô tưởng xứ có tồn tại?

(người viết thay cụm “phi tưởng phi phi tưởng xứ” quen thuộc bằng cụm “vô tưởng phi vô tưởng xứ” cho khỏi rối rắm về từ ngữ - Kan).

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta thay:

A = tưởng xứ.

B = tồn tại.

C = phi tồn tại.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Tưởng xứ tồn tại?

2) Tưởng xứ phi tồn tại?

3) Tưởng xứ vừa tồn tại vừa phi tồn tại?

4) Tưởng xứ phi tồn tại cũng không phi tồn tại? = Vô tưởng phi vô tưởng xứ có tồn tại?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi này, cần có ít nhất một đối tượng để so sánh với tưởng xứ. Hãy giả định rằng có một xứ B tách biệt với tưởng xứ để so sánh. Nhưng giả định này làm nảy sinh vấn đề giống hệt phần 2.2 về vũ trụ.

- Cái X1 gì nằm giữa B và tưởng xứ để chúng tách biệt nhau?

- Cái X2 gì nằm giữa X1 và tưởng xứ?

- Cái X3 gì nằm giữa X2 và tưởng xứ?

……………………..

Như vậy, ta lại rơi vào một chuỗi hí luận vô tận, và ta sẽ chết trước khi giải đáp được câu hỏi “Vô tưởng phi vô tưởng xứ có tồn tại”?

2.5) Vô sở hữu xứ có tồn tại?

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta thay:

A = Vô sở hữu xứ.

Già = tồn tại.

Trẻ = phi tồn tại.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Vô sở hữu xứ tồn tại?

2) Vô sở hữu xứ phi tồn tại?

3) Vô sở hữu xứ vừa tồn tại vừa phi tồn tại?

4) Vô sở hữu xứ không tồn tại cũng không phi tồn tại?

Lập luận tương tự như phần 2.2, ta đi tới kết luận ta sẽ chết trước khi trả lời được bốn câu hỏi về sự tồn tại của Vô sở hữu xứ.

2.6) Thức vô biên xứ có tồn tại?

Lập luận tương tự như phần 2.2, ta đi tới kết luận ta sẽ chết trước khi trả lời được bốn câu hỏi về sự tồn tại của Thức vô biên xứ.

2.7) Không vô biên xứ có tồn tại?

Lập luận tương tự như phần 2.2, ta đi tới kết luận ta sẽ chết trước khi trả lời được bốn câu hỏi về sự tồn tại của Không vô biên xứ.

2.8) Kết luận

Vừa rồi, ta đã nêu lần lượt bảy vấn đề hí luận phù phiếm mà ta đã thấy, chúng ta sẽ chết trước khi có câu trả lời cho chúng. Ta cần mạnh mẽ từ bỏ những hí luận như vậy.

Đặc biệt, từ phần 2.4 đến phần 2.7, ta đã thấy tính chất phù phiếm của bốn xứ tương ứng với bốn loại thiền vô sắc trong kinh điển chữ Pali và A Hàm chữ Hán. Chúng ta cần dứt khoát loại bỏ chúng ra khỏi kinh điển.

3) VÔ NGÃ TỐT HAY XẤU?

Bây giờ, ở ví dụ 2.1 ta thay:

A = Vô Ngã.

Già = tốt.

Trẻ = xấu.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Vô Ngã là tốt?

2) Vô Ngã là xấu?

3) Vô Ngã vừa tốt vừa xấu?

4) Vô Ngã không tốt không xấu?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi này cần có ít nhất một đối tượng X để so sánh.

- Nếu X là một người ưa thích Hữu Ngã, X trả lời “Không” cho câu 1.

- Nếu X là một người ưa thích Vô Ngã, X trả lời “Không” cho câu 2.

- Nếu X là một người bị chao đảo giữa hai cực Hữu Ngã – Vô Ngã, X không trả lời được bất kì câu hỏi nào.

- Nếu X là một bậc giác ngộ, X trả lời “Không” cho tất cả bốn câu hỏi. Vì X bây giờ không còn là đối tượng để so sánh với Vô Ngã nữa, vì vị ấy không bám víu vào bất cứ điều gì.

Bây giờ, nếu ta thay X = Đức Phật, thì xảy ra bốn tình huống như sau:

- Nếu người A ưa thích Hữu Ngã, Đức Phật trả lời “Không” cho câu số 2.

- Nếu người A ưa thích Vô Ngã, Đức Phật trả lời “Không” cho câu số 1.

- Nếu người A bị chao đảo giữa hai cực Hữu Ngã – Vô Ngã, Đức Phật không trả lời câu hỏi nào. Mộ ví dụ điển hình là trường hợp du sĩ Vacchagotta được lưu lại trong kinh điển.

- Nếu người A đã hiểu được sự phù phiếm của những hí luận như vậy, vị ấy từ bỏ tất cả những gì liên quan đến Hữu Ngã – Vô Ngã, vị ấy không thắc mắc, không đặt bốn câu hỏi cho Đức Phật, và Đức Phật không cần phải trả lời. Vị ấy đang đi trên con đường hướng tới giác ngộ.

Vậy, ta hiểu Đức Phật là một thầy thuốc đầy thực tiễn. Ngài tùy người tùy bệnh mà cho thuốc, chứ Ngài không tạo ra một thứ thuốc vạn năng cho mọi loại bệnh mọi loại người.

4) CUỘC SỐNG LÀ KHỔ HAY VUI?

Bây giờ, ở ví dụ 2.1 ta thay:

A = cuộc sống.

Già = khổ.

Trẻ = vui.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Cuộc sống là khổ?

2) Cuộc sống là vui?

3) Cuộc sống vừa khổ vừa vui?

4) Cuộc sống không khổ cũng không vui?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi này, ta cần một đối tượng X để so sánh.

- Nếu X ưa hưởng thụ, X trả lời “Không” cho câu 1. X ở đây là những người chủ trương chạy theo vật chất, hoặc chủ trương đoạn diệt, cho rằng chết là hết, và như vậy phải hưởng thụ tối đa trong đời sống hiện tại.

- Nếu X ghét hưởng thụ, X trả lời “Không” cho câu 2. X ở đây là những người chủ trương khổ hạnh hành xác, hoặc chủ trương rằng thế giới này chỉ toàn khổ ải và mong cầu được đến một cõi khác không còn khổ, chỉ toàn vui.

- Nếu X bị chao đảo giữa khổ và vui, X không trả lời được bất cứ câu nào. X ở đây là hầu hết loài người. Đây là vấn đề lớn nhất của phần lớn mọi người. Họ chao đảo giữa khổ và vui: lúc khổ nhiều vui ít; lúc khổ ít vui nhiều; lúc khổ vui như nhau; lúc khổ rồi sau đó vui; lúc vui rồi sau đó khổ v.v.

- Nếu X không còn dính mắc bởi bất cứ điều gì liên quan đến khổ - vui, vị ấy trả lời “Không” cho cả bốn câu hỏi. Vị ấy đang trên con đường hướng tới giác ngộ.

5) CÁC DHAMMA (PHÁP) LÀ CÓ THỰC HAY PHI THỰC?

(chữ dhamma ở đây theo nghĩa được dùng trong các bộ Abhidhamma của bất cứ bộ phái nào – Kan)

Bây giờ, ở ví dụ 2.1 ta thay:

A = dhamma

Già = có thực.

Trẻ = phi thực.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Các dhamma là có thực?

2) Các dhamma là phi thực?

3) Các dhamma vừa thực vừa phi thực?

4) Các dhamma không thực cũng không phi thực?

Ta đã biết, để trả lời được câu hỏi trên ta cần một đối tượng X để so sánh.

- Nếu X là người không theo đạo Phật, hoặc X là Phật tử thuộc các bộ phái phản đối Abhidhamma, hoặc X không thích Abhidhamma v.v. thì X trả lời “Không” cho câu 1.

- Nếu X là Phật tử thuộc các bộ phái tôn sùng Abhidhamma, hoặc X ưa thích Abhidhamma v.v. thì X trả lời “Không” cho câu 2.

- Nếu X là Phật tử nhưng không tự mình suy xét được giá trị của Abhidhamma mà phải dựa vào kiến giải của hai nhóm vừa kể trên, thì X bị chao đảo giữa hai cực có thực – phi thực của dhamma. X không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào.

- Nếu X không dính mắc vào bất cứ dhamma nào trong Abhidhamma, không dính mắc vào bất cứ Abhidhamma thuộc một bộ phái riêng biệt nào, vị ấy trả lời “Không” cho tất cả bốn câu hỏi. Vị ấy đang trên đường hướng tới giác ngộ.

Hết

Người viết: Kan

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14178)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15519)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13209)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19366)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24632)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15747)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37831)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13481)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13107)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17187)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13207)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17392)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21642)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13223)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12820)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13660)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28633)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23407)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34388)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28889)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32196)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11330)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12009)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26304)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17386)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14527)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34491)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13118)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12286)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13423)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40518)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26948)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14465)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13258)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13465)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12541)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13157)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12321)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11801)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12577)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17670)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12212)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12760)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18442)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14301)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12999)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11327)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12153)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13469)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10841)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11084)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10293)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28911)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25285)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26857)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25775)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18680)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23043)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34555)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant