Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kết luận

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9965)
Kết luận

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

KẾT LUẬN

 Khi Thấy (Chánh Kiến) mọi sự vật đều giả lập, thì tiến trình tri thức đúng về cái nhận thức sai lầm của chủ khách đưa chúng ta đến giác ngộ. Nhận thức sai lầm của nhị nguyên đối đãinhận thức căn trầncăn trần đều là giả lập, như đã giải thích, thì nhận thức ấy làm sao đúng. Cho nên Tánh Giác là thể nhận nơi thực tướng của sự vật. Thực tướng của sự vật là Tánh Không. Tánh Giác là Thiệt Hư Không; sự vật mà Tâm thể nhập nơi dung thể Không của nó cũng là Hư Không. Vạn vật đồng nhất thể (tâm lẫn vật) là đồng thể Không. Cho nên Tánh Giác (Biết) là trực nhận nơi thể Không của sự vật.

Chúng ta có thể thực hiện Tánh Giác bằng cách dùng Tâm (Biết do trực nhận không qua ý thức của căn trần) để BIẾT CÁI BIẾT CỦA CĂN TRẦN.

Cái biết của căn trần (chủ khách) là năng sở. Tánh biết của năng sở cũng là Tánh Không nhưng giới hạn ở các căn. Cho nên cái Biết của Tâm (Tánh Giác) là Hư Không bao la vô giới hạn hòa nhập tánh không của sự vật (Dung thể không hay tướng không của đối tượng) biến thành một khối vô phân biệt của Hư Không. Đó là thể nhập chốn tịch tĩnh y nhiên, hay thực tế mà nói, Biết cái mình biết là Tánh Giác. Biết do Tâm (Tánh Giác) cái mình biết do căn trần (chủ khách hay năng sở). Tiến trình nầy làm cho năng sở song vong. Tánh Giác vượt khỏi năng sở.

Thiền sư Duy Tín đời Tống nói: Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Nay được chỗ dứt sạch ( thể nhập nơi tịch tĩnh y nhiên) thấy núi sông là núi sông.

Trước ba mươi năm chưa tu, dùng trí phân tích (thường trí) của căn trần, chủ khách thì thấy núi sông là núi sông. Sau vào tu, gặp thiện tri thức chỉ dạy thì dùng trí phân biệt (thời gian huyễn hóa sự vật) thì thấy núi sông không phải là núi sông thật như ta vừa thấy nữa. Vì trong một sát na khoảnh khắc núi sông ta đang thấy không còn thật là nó nữa, đã huyễn hóa rồi, đã thêm 1 sát na tuổi. Nhìn trên khía cạnh thời gian thì nó không còn thật là nó nữa, đã biến thái rồi. Khi thể nhập vào chốn tịch tĩnh y nhiên, tức là trực nhận nơi thực tướng của sự vật, ngay khi thấy núi sông thì Biết (nhận thức) cái mình biết là núi sông. Đó là thực Biết hay Biết cái thực tướng của núi sông.

*** Các pháp tu dùng phương tiện để hàng phục vọng tâm, triệt tiêu tất cả các vọng tưởng, nghĩa là giảm trừ các vọng tưởng cho đến đổi dường như không còn vọng tưởng, nhưng kỳ thực chỉ còn có một vọng tưởng duy nhất mà thôi đó là nhứt niệm vô minh. Tiến trình giảm trừ đến cực tiểu e # 0 (gần bằng số không, nhưng chưa phải là không).

Nhứt niệm có công năng phi thường, xuyên qua lớp mây mù dày đặc của thế giới vọng tưởng, mà đến một thế giới sáng lạng sẵn dành cho hành giả sử dụng những phương tiện tương ứng. Vì khi hành giả tập trung vào một ý tưởng hay một ý niệm nào thì ý tưởng ý niệm đó sẽ sáng tỏ vô cùng. Thế giới mà nhứt niệm đạt được như Tây Phương cực lạc, A Di Đà Vô Lượng Quang, Thiên Đàng v.v...Từ thế giới công ước đó, hành giả có đủ năng lực thể nhập vào thế giới vô phân biệt, tuyệt đối.

-- Một thí dụ về công năng của nhứt niệm mà người thế gian dùng để đạt đến mục đích nào đó của họ, đó là dùng sức mạnh của tư tưởng để nghiên cứu khoa học chẳng hạn. Còn như các pháp thiền quán tưởng, công án hay thoại đầu, ngay cả niệm Phật dùng thân khẩu ý (tay lần chuỗi, miệng niệm Phật, ý nhận ngay tánh nghe), hoặc niệm chú cũng dùng thân khẩu ý (tay bắt ấn, miệng niệm chú, ý quán tưởng) cũng là đi đến nhứt niệm. Riêng về niệm Phật và niệm chú dùng tam nghiệp tập trung đến nhứt niệm thì công năng đó mạnh mẻ phi thường, gấp ba lần với ý tưởng, vì quá kiên cố, không có kẻ hở để cho một niệm khởi nào xen vào.

--Chẳng hạn,niệm chú, theo Mật Giáo Thậm Tâm Nội Nghĩa, Những phương pháp tu tập liên quan đến việc đầu tiên là là hành giả phải chăm chú nhứt tâm nhìn vào biểu tượng cho đến khi biểu tượng có thể ảnh hiện rõ ràngvững chắc trong tâm. Kế đến, hai tay kiết ấn Nhập vào, hành giả quán tưởng hình ảnh kia trong tâm (tại trái tim). (tr.153)

***Rõ ràng cách niệm chú chỉ là sự tập trung cao độ của thân nhãn nhĩ ý thôi. Đã trình bày trước, lục căn không có thực thể, lục trần (biểu tượng) cũng vậy, thì lục thức (ý thức) làm sao thoát khỏi đường sanh diệt. Ngay quan niệm tức thân thành Phật ngay xác thân còn sống thì không có trái lẻ vì thành Phậtgiác ngộ Niết Bàn, đạt được Tánh Giác, là sự sáng suốt tuyệt đối.Tánh Giác hay Phật Tánh không sanh không diệt, chớ thân thành Phật mà còn sanh diệt vô thường, rồi ngày kia sẽ chết, làm sao gọi Thân là Phật được! Cái bất sanh bất diệtchân lý tuyệt đối chỉ hiễn bày trong tâm giác ngộ mà thôi: Tánh Giác hay Pháp Thân hay gọi là Phật. Còn các căn hay trần (thân xác) chỉ là phương tiện (chiếc thuyền) chớ không thể trở thành Phật, (Pháp Thân, Tánh Giác, Cứu Cánh) được.

-- Một thí dụ khác, một đơn vị (a) gồm có thân xác và tinh thần như chiếc bình không cũng gồm có cái võ bình trong chứa không khí. Trong đơn vị (a) có thể nói gồm có hai thành phần khác nhau, chớ không thể nói hai thành phần ở chung cùng một đơn vịđồng nhứt. Đồng nhứt là cùng một thể hòa hợp nhau. Nhắc lại cái bình là dụng cụ chứa không khí; khi cái bình bị vỡ (vô thường), thì không khí trong bình hòa tan vào hư không. Hư không thì không sanh không diệt bao la vô giới hạn. Cũng như thế, thân xác thì vô thường (sanh già bịnh tử), còn tâm thì bất sanh bất diệt. Do đó muốn giải thoát khỏi cảnh vô thường khổ đau phiền não của thân huyễn hóa để nắm bắt cái pháp thân bất sanh bất diệt là chỉ có tri thức đúng (giác ngộ) cái nhận thức sai lầm của căn trần chủ khách đối đãi của thế giới tương đốithể nhập thực tướng Niết Bàn Tuyệt Đối.

Thực tế, cái huyễn hóa không thể nghĩ bàn (không còn suy nghĩ phân biệt gì ngoài biểu tương giả lập) được tập trung cao độ đến đâu đi nữa cũng chỉ là huyễn hóa mà thôi. Tuy vậy cái huyễn hóa của biểu tượng nầy trở nên quá rõ ràng, vì sự tập trung cao độ như thế tạo thành các ý thức trùng trùng duyên khởi của chỉ một biểu tượng trong tâm; đó là ký ức quá mẫn của một tâm trạng phi thường của một chúng sanh đặc biệt.

Theo Tâm lý học, ảo giác đó quây quần trong tâm trí mãi biến thành hai hậu quả như kể ra từ trước.

--Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, xem thần chú là một biểu tượng giả lập, phải dùng chân trí (Quán tự tại) nhận ngay thực tướng của nó. Tánh Không của thần chú hiển lộ qua quán tự tại nghĩa là dùng Tánh Giác (Thiệt Hư không) thể nhập thể không của thần chú, mới vượt khỏi mọi nhân duyên chằng chịt, khổ đau, luân hồi của thế giới tương đối.

Nói cách khác, niệm Phật, niệm chú, hay khán công án là nhằm mục đích đạt đến cứu cánh của một thực tại công ước với công năng to lớn, là quá sáng suốt, hội nhập vào thế giới vô lượng quang hay thế giới của đức Đại Nhựt Như Lai.

--Phương tiện biện minh cho cứu cánh là lịch trình nhân quả được Tâm lý học giải thích như sau:

-Ý tưởng mà một người có được về kinh nghiệm tương lai là do kinh nghiệm hiện tại của hắn dẫn đến đó.
(The idea that a person has about his future experience guides his present experiences in that direction.
(Trancewwork, p. 93)

Đó là vai trò của khả năng dự tri về kinh nghiệm. Loại quá trình nầy gọi là chu trình định hướng trong địa hạt của lý thuyết hệ thống phân loại.

*** Còn các pháp bổn Bổn như vô pháp (Tánh Giác) dường như không có pháp nào, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái. Vậy điều kiện cần và đủ để đạt Tánh Giác là:
-Cần trực nhận được thực tướng sự vật (vô không gian); và
-Đủ là không bám víu vào sự vật đó (vô thời gian). Cũng giống như hàng phục vọng tâm và an trụ tâm tronh kinh Kim Cang, hay trong Bát Nhã Tâm Kinh là Sắc bất dị không, thực tại giả lậpthể không của nó là một. 
Vậy muốn đạt chơn tâm, hành giả thể nhập nơi thực tướng của sự vật. Đó là chân lý tối hậu, hay chân lý tự nó, là chơn ngã, chân như, căn bản trí, trí vô sư v.v...

*** Thắp sáng hiện hữu là thường thấy rõ ràng từng khoảnh khắc hiện tại tức là trực nhận sự vật vô thời không. Khi nhận ngay nơi tánh không của sự vật là ta đã giảm trừ tất cả khoảng không gian bên ngoài của sự vật, chỉ nắm bắt ngay cái dung thể không mà sự vật chiếm cứ trong không gian. Bề ngoài mà xét, thì giảm thiểu tối đa và không còn khoảng không gian nào trống ngoài sự vật cả : vô không gian. Ngay đó (hiện hữu) ta thường thấy rõ ràng sự vật, không có quá khứ và tương lai xen vào cái Biết của ta: vô thời gian.

Trong khoảnh khắc hiện tại là kẽ hở giữa quá khứ và tương lai, nói theo thiền Dzogchen. Ta kéo dài kẻ hở đó là thiền. Thắp sáng hiện hữuhành trình sinh hoạt bình thường với sự kéo dài cái khoảnh khắc hiện hữu ấy. 

Trên đường dài của thời gian, sự vật được ta trực nhận ngay thực tướng của nó trong khoảnh khắc hiện hữu từng khoảnh khắc với từng sự vật liên tục xảy ra và mỗi sự vật được hiện quán chỉ trong một khoảnh khắc mà thôi. Vì thời gian huyễn hóa sự vật, nên Tánh giác phải thể nhập thực tướng của sự đó ở từng giai đoạn khoảnh khắc hiện quán: vô thời không hay thực tại tuyệt đối.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nắm bắt hiện hữu ở khoảnh khắc vô thời gian, thì chúng ta chỉ loại trừ các vọng tưởng

Như ta thấy cây gậy ngay khoảnh khắc hiện quán, chỉ có cây gậy mà thôi, không có gì ngoài cây gậy, đó là triệt tiêu tất cả các vọng tưởng khác. Trong trường hợp nầy ta nắm bắt chỉ có một thực tại giả lập duy nhứt, kết quả là giải thoát tất cả mọi vọng tưởng khác ra khỏi tâm ta.

Trong tiến trình thắp sáng hiện hữu nầy, ta cần giải tỏa cả thực tại giả lập bằng giác tĩnh nghĩa là, khi ta thấy cây gậy (căn trần), thì ta Biết ta thấy cây gậy. Thường biết do thấy (năng tri) và nhận Biết là Giác. Cho nên ta thấy cây gậy Biết là cây gậy. Nói một cách khác, Thắp sáng hiện hữu, tức dùng cái thấy và nhận Biết, hoặc giả, ngay cái thấy trực nhận thực tướng(thể không) của sự vật: vô thời không. 

Mặc dù trực nhận thể không của sự vật trong khoảnh khắc, là vượt khỏi thời không, chúng ta cần phải ưng vô sở trụ thì vô sở bất tại, nghĩa là không trụ vào thời không (sự vật hiện quán) là vượt khỏi thời không. Bất cứ chỗ nào trong khoảnh khắc đều nắm bắt thực tại; nên không có chỗ nào mà không có thực tại.Vậy Tánh Giác là Thiệt Hư Không nên bao la rộng khắp và vô giới hạn.

*** Thắp sáng hiện hữulối sống của một tâm trạng bình thường của những người biết nắm bắt thực tướng của sự vật. Nắm bắt thực tướng sự vật bao gồm cả ngũ uẩn. Những vọng tưởng hoặc cảm thọ như khổ đau vui buồn v.v... cũng phải thấy rõ ràng (chánh kiến) nó không có thực thể, từ đó giải quyết chúng theo tinh thần Trí Bát Nhã:

1). Một là dùng Trí phân tích, Sắc tức thị không,sắc chỉ là tổng hợp các chất khác (tứ đại) mà hợp thành nó. Trí phân tích là cái nhìn sự vật trong không gian với một điều kiện nào đó của thời gian. Thường sự vật được phân tích, người ta truy nguyên nguồn gốc xuất xứ của nó trong quá trình hình thành. Cho nên người ta thường trở lại quá khứ để tìm dấu vết các nhân tố hợp thành. Như cái bàn trước mắt chẳng hạn, ta phả lùi lại quá khứ xem lại thành phần tạo ra nó. Nào gỗ, nào đinh, nào sơn v.v...đã dùng kỹ thuật lắp ráp lại theo hình dáng cái bàn mà ta đang thấy đây.

2). Hai là Trí phân biệt, Sắc tức thị không Sắc tức thì biến thành không thật là nó nữa theo thời gian huyễn hóa.

Cái trí phân biệt là cái nhìn sự vật theo thời gian, người ta có thể dùng hai trí trên để giải tỏa nỗi buồn niềm vui, vọng tưởng ngay khi nó khởi lên,thì nhìn xem nó như là huyễn hóa không thật
Tri vọng hoặc tri huyễn lìa vọng hay huyễn ngay, là lối xa lìa mọi sự giả vọng rất hữu hiệu.

3). Ba là Trí vô phân biệt. Sắc không khác không.

Muốn hiển bày Tánh Giác, thì xem khổ đau hay vọng tưởng là những đối tượng hiện quán (như các sự vật giả lập), ta nên nắm bắt thực tướng cuả chúng. Cảm thọ, hay Tưởng, Thức được xem nhưthực tại giả lập. Thể Không của chúng chỉ hiển lộ trong khoảnh khắc hiện tại, tức là vô thời không. Vậy khi một vọng tưởng khởi lên, ngay đó ta xem nó là huyễn hóa (Trí phân biệt) hoặc nhìn thẳng thể trong sáng của nó, tức là thể Không (Trí vô phân biệt). Tức là tri nhận nơi thực tướng của vọng tưởng (ngũ uẩn giai không), thì vọng tưởng đó làm gì ảnh hưởng đến tâm trí ta.

--Tâm trạng bình thường của một một người tu hành và một người thường thế tục thì có khác nhau.Thiền sư Huệ Hải cũng có cùng một ý trên, khi được hỏi:

-Sự tu hành của Ngài như thế nào?
Sư bảo:
-Đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Người hỏi bảo:
-Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?
Sư đáp:
-Người thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ nghĩ trăm việc, khác nhau ở chỗ đó.

Khi đã nhận được bản lai diện mục rồi thì sự sống cũng diễn ra thường nhật với tinh thần tĩnh giác. Tĩnh giác hòa nhập trong tất cả mọi họat động hàng ngày trong sự sống. Lúc ăn Biết ăn, lúc làm việc thì phải sáng suốt, Biết rõ ràng và Làm chu đáo công việc được giao phó, lúc mệt thì ngủ, khi niệm Phật Biết niệm Phật, khi khán công án hay thoại đầu thì Biết khán, khi niệm chú cũng vậy, dùng tam mật của thân khẩu ý của mình hòa đồng vào tam mật của đức Đại Nhựt Như Lai hay trực nhận tánh không của thân khẩu ý tức là hòa nhập vào Pháp thân Phật. Tĩnh tâm cũng vậy,thời gian yên lặng để tâm tĩnh giác vào đề mục, vào tín điều, vào phúc âm, vào niềm tinhy vọng; ước nguyện ấy quyện thành một khối có uy lực khôn lường, thúc đẩy linh hồn chuyển hóa đến vương quốc của Thượng Đế.

*** Bình thường tâm không phải chỉ dành cho người tu hành, mà còn có thể áp dụng cho mọi người,mọi giới, mọi ngành nghề trong mọi sinh hoạt hàng ngày, khi con người đã biết Tĩnh Giác.
-Một nhân viên văn phòng hay cơ xưởng, chẳng hạn, làm việc một cách đúng đắn, có nghĩa là sử dụng khả năng thực sự của mình vào công việc với trực tâm -- trí không hư dối,tình cảm chơn thật, hành động (thẳng thắn) đạo đức. Thắp sáng cái hiện hữu, là chăm chú công việc hàng ngày, với năng xuất cao. Kết quả, thứ nhứt là mình giải thoát mọi phiền muộn của chính mình như không còn tham lam, so đo làm nhiều làm ít, suy nghĩ lương hướng của mình--là giải tỏa được tham lam vốn đem đến sân si. Thứ đến, công việc năng suất cao, tính thẳng thắn, không hư dối, gây ấn tượng tốt cho trưởng cơ quan, là giải tỏa được thành kiến của thượng cấp (chủ khách) nhìn sự sơ sót khuyết điểm của công nhân hay nhân viên. Khi một người làm việc gì mà dùng khả năngthực sự (Thắp sáng hiện hữu), tình cảm chân thành, tư tưởng trong sáng, thì mình không những giải thoát mọi phiền não do tham sân si vương vấn cho chính mình mà còn làm cho thượng cấp hay tha nhân có cái nhìn cảm phục; tức là giải tỏa mọi sự ràng buộc của thành kiến ngoại tại. Khi ta thắp sáng hiện hữu là ta đã tự giácgiác tha vậy.

*** Trong các thế giới tôn giáo, các nhà đạo học luôn luôn tìm ra phương pháp để nhận diện thực tại, nhứt là thực tại tuyệt đối, từ đó mới biết được cái đích mà hướng đến.Thấy đúng (Chánh Kiến), Nghĩ đúng (Chánh Tư Duy) cái thực tại nầy, tất phải dùng đến cái Trí. Để tránh những sơ sót sai lầm trong nhận thức, chúng ta cần phải dùng Chân Trí (Trí Bát Nhã Cứu Cánh) mới mong có hiệu quả vững chắc hầu nắm bắt cứu cánh. Hành trình đi đến Chân Nguyên, hay Thể Nhận thực tướng của vạn pháp, là Thắp Sáng Hiện Hữu, là Giải Thoát mọi ràng buộc nhân duyên chằng chịt của nhị nguyên mà đến đích ĐẠO. 

Thấy được Thực Tướng của vạn hữu, duy trì cái thực tại ấy, và hành sử đúng trong mọi sinh hoạt hàng ngày, là lối Kiến Thiền Hành, Tức Khắc Khai Ngộ Hiện Đời Giải Thoát, Trực Tâm, Hiện Tại Tức Bồ Đề, Giải Thoát Tức Thì.

Đó là pháp Thắp Sáng Hiện Hữu với Tâm Bình Thường trên đường dài của cuộc sống trong tiến trình Khai Thị Ngộ Nhập Chí Đạo.

PHỤ TRANG

SỐNG ĐẠO

I.- VÀO ĐẠO 
Mọi sự xung quanh luyến bởi tình
Tu hành cốt chí đặng tâm minh
An nhiên tự tại tình không động
Pháp, giới là gì hởi đạo huynh!

II. TỰ TẠO: VÔ NGẠO
Thường nhật bình tâm tức thị thiền
Công phu hé thấy cảnh linh thiêng
Hãy đừng cao ngạo cho là ngộ
Vọng thức sanh ra mối ảo thiền.

III. TỰ TRI: VÔ NGÃ
Trí tình thể dụng của tâm viên
Chấp ngã làm chi lắm lụy phiền
Tình thức lầm mê tâm tánh giả
Cái thân ngoại vật cảnh thần tiên

IV.- TỰ TẠI: VÔ NGẠI
Sự vật dịch lưu khó chận dừng
Chơn không thể nhập sống ung dung
Thức tình không lập tâm trong sáng
Vật vật, tâm tâmngại ngùng.

V. TINH TẤN
Huân tập dày công nghiệp thức tiêu
Hành thiền rốt ráo tự tâm điều
Sắc không, không sắc tâm vô ngại
Quả trỗ tịch về cảnh thoát siêu.

VI. BUÔNG XÃ
Ý thức ưa duyên cảnh mỹ miều
Danh tình lợi xã, ý tiêu diêu
Công phu tinh tấn tiềm năng phát
Huân tập thâm sâu tiềm thức tiêu
Thanh thản tâm tư vô thức tướng
An nhàn trí não hữu tâm điều
Trí tình giả tướng đừng tầm kiếm
Thoát kiếp luân hồi nghiệp quả tiêu.

 TĨNH LẶNG 
Tĩnh đi thân bình thản 
Tĩnh đứng khẫu bặt lời 
Lặng nằm tâm tận xã 
Thoát ngồi ý lặng yên 
Lặng thấy mùa xuân đến 
Lặng nghe nắng hạ về 
Tĩnh thức ao thu lạnh 
Mặc nhìn gió đông sang 

MẶC THOÁT
Nắng hạ mùa sen trổ
Thu thủy cá thảnh thơi
Hoa xuân đua sắc nở
Gió đông thổi lặng ngồi
Bốn mùa tám tiết đổi
Giếng thẳm bóng trăng soi
Một mình thanh thản sống
Mặc mặc thời gian trôi

HÀNH THIỀN
Thiền chính không có lời
Như lai tam muội hiện
Tĩnh lặng thường hành: Giải
Mặc mặc như như: Thoát

TĨNH MẶC
08- 12- 86

LÊN NÚI
Tay không chạm hư không
Chân không đạp đất không
Lên núi THẤY không mệt
BIẾT mệt ở đâu? Không!

TĨNH MẶC
_Kỷ niệm ngày 21 giêng Mậu Thìn, hẹn
cùng thầyThông Giác lên thăm thầy Sáu, 
nhưng Thông Giác đã lên trước 1 ngày.

SỐNG THỰC
Dòng đời đôi mé thong dong sống.
Nẻo đạo trung không tĩnh lặng hành.
Khởi định đều không thực tướng sanh.
Không tâm không pháp tâm thanh tịnh

TĨNH MẶC
15- 2- 88

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9970)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7072)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7314)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6965)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9330)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5823)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7088)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6507)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6080)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7147)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14349)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20374)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9452)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7837)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8170)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7427)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9354)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7436)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7451)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7644)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9441)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8757)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7352)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7950)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6990)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7651)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9835)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8271)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8816)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7658)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8815)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8623)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7990)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8992)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9407)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8712)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8869)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7209)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9148)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8584)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7879)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9592)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10141)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8739)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8334)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7616)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9302)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7457)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15326)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7275)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8457)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12201)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7281)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11477)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8291)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8016)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7890)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8901)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7397)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18158)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant