Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn chân lý cao quý

06 Tháng Chín 201100:00(Xem: 21010)
Bốn chân lý cao quý

BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ
His Holiness the Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ

Khi Đấng Đạo sư vĩ đại của hoàn vũ Phật Thích Ca lần đầu tiên thuyết giảng về giáo Pháp trên mảnh đất tôn quý Ấn Độ, Ngài đã dạy về bốn chân lý cao quý: sự thật của khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường để chấm dứt khổ đau. Từ ấy đến nay, nhiều quyển sách chứa đựng những bàn luận về bốn chân lý cao quý bằng Anh ngữ, chúng (được biết nhiều là Bát chánh đạo) rất phổ biến. Bốn chân lý này chứa đựng tất cả, bao gồm nhiều vấn đề trong ấy.

Lưu tâm đến bốn chân lý cao quý một cách thông thường phổ biếnsự kiện là không ai trong chúng ta muốn khổ đau và tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc, chúng ta có thể nói về một quả và một nhân của cả phương diện phiền nãophương diện giải thoát. Những khổ đau thực sự và những nguyên nhân thực sự là quả và nhân trên những thứ mà chúng ta không muốn, sự chấm dứt thực sự và con đường đúng thực là tác động hiệu ứng và nguyên nhân trên những thứ mà chúng ta khao khát.

SỰ THẬT VỀ KHỔ ĐAU

Chúng ta trải qua kinh nghiệm nhiều loại khác nhau về khổ đau. Tất cả bao gồm ba thứ: khổ của khổ (khổ khổ, khổ của đổi thay (hoại khổ) và khổ lan tràn cùng khắp tất cả (hành khổ).

Khổ của khổ liên hệ đến những thứ như nhức đầu và v.v và v.v… Ngay cả những thú vật cũng có thể nhận biết loại khổ này và, giống như chúng ta, muốn thoát khỏi khổ đau đó. Bởi vì hữu tình chúng sinhsợ hãikinh nghiệm không thoải mái từ những loại khổ này, chúng sinh dấn thân vào nhiều loại hành động khác nhau để xóa bỏ chúng.

Khổ của đổi thay liên hệ đến những hoàn cảnh nơi chốn, thí dụ, chúng ta đang ngồi thư giản rất thoải mái và khởi đầu mọi thứ dường như tốt đẹp, nhưng sau một lúc chúng ta mất cảm giác ấy và trở nên áy náy không yên và không thoải mái.

Trong những xứ sở nào đấy chúng ta thấy một số lượng áp đảo của nghèo nàn và bệnh tật: đó là những thứ khổ của loại một – khổ của khổ. Mọi người nhận thức rằng đó là khi những điều kiện khổ đau được loại trừ và tiến bộ phát triển ở trên đấy. Trong nhiều nước phương Tây, nghèo khổthể không là một vấn đề, nhưng chúng ta ở nơi có trình độ phát triển vật chất cao có những vấn đề thuộc loại khác. Thoạt tiên chúng ta có thể vui sướngvượt qua những vấn đề khó khăn mà chúng ta đối diện trước đây, nhưng chẳng bao lâu khi chúng ta giải quyết những vấn đề nào đấy, những khó khăn khác lại xuất hiện. Chúng ta có hàng khối tiền của, vô vàn thực phẩm và nhà cửa đẹp đẻ, nhưng bởi chú trọng quá mức giá trị của những thứ này chúng cuối cùng chúng ta làm cho chúng trở nên vô giá trị. Loại kinh nghiệm này là khổ của đổi thay.

Một người nghèo khổ thuộc tầng lớp dưới có thể nghĩ rằng thật là tuyệt vời nếu có một chiếc xe hơi hay một truyền hình và nên làm thế nào kiếm được chúng, người ấy sẽ trước hết cảm thấy rất hạnh phúchài lòng. Bây giờ đây, nếu những hạnh phúc như thế là thường tại, chỉ cần người ấy có xe hơi và truyền hình người ấy sẽ vẫn vui vẻ. Nhưng vấn đề không như vậy, niềm hạnh phúc ấy sẽ qua đi. Sau vài tháng người ấy muốn một loại xe khác, nếu có tiền, người ấy sẽ mua một truyền hình mới. Những thứ cũ kỷ, cùng những đối tượng đã từng cho người ấy biết bao vui thích hài lòng, giờ đây là nguyên nhân làm cho người ấy bất mãn. Đó là tính tự nhiên của đổi thay, vô thường; đó là vấn nạn của khổ đau thay đổi, vô thường.

Khổ đau lan tràn cùng khắp là loại khổ đau thứ ba. Nó gọi là khổ đau làn tràn cùng khắp, khổ đau pha lẫn phức hợp đa phương, bởi vì nó hoạt động như căn bản của hai thứ trước.

Có thể có những người, ngay cả ở những xứ sở phát triển, muốn được giải thoát khỏi thứ khổ đau thứ hai, khổ đau của thay đổi, vô thường. Chán nản với những cảm xúc nhiễm ô, họ tìm những cảm giác thư thái, thanh thản, tĩnh lặng, điều này có thể hướng dẫn đến tái sinh trong những thế giới vô sắc tướng, không có hình dáng rõ rệt, chỉ có những cảm xúc như thế.

Giờ đây, khao khát giải thoát khỏi hai loại khổ đau đầu tiên không phải là động cơ chính để tìm kiếm sự giải thoát (từ thế giới luân hồi); Đức Phật dạy rằng gốc rễ của ba loại khổ đau là loại thứ ba: khổ đau lan tràn cùng khắp. Một số người muốn tự tử; họ nghĩ rằng có khổ đau đơn giản chỉ vì có đời sống con người và bằng sự chấm dứt đời sống thì sẽ không còn gì nữa. Điều thứ ba này, lan tràn cùng khắp, khổ đau dưới sự điều khiển của nghiệp quả và tâm phiền não vọng tưởng. Chúng ta có thể thấy, ngoại trừ tư duy sâu sắc, rằng đây là dưới sự điều khiển của nghiệp quả và tâm phiền não vọng tưởng của đời sống trước, hay tiền kiếp: giận tức và vướng mắc, chấp trước khởi lên đơn giản chỉ vì chúng ta có cái tập hợp này hiện hữu. Tích tập phức hợp những hiện tượng giống như một khả năng cho chúng ta sản sinh nghiệp chướng và những tâm phiền não vọng tưởng; đó gọi là nhận lấy một vùng xấu. Bởi vì rằng những hình thức nào liên hệ đến việc tiếp xúc một vùng xấu của tâm phiền não vọng tưởng và bị dưới sự điều khiển của chúng, nó hỗ trợ sự sản sinh những tâm phiền não và ngăn trở chúng ta với đạo đức. Tất cả những khổ đau của chúng ta có thể truy nguyên đến những tích tập của chấp trước, bám víuvướng mắc.

Có thể, khi chúng ta nhận thấy rằng những tích tập của chúng tanguyên nhân của tất cả những khổ đau của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ rằng tự tử là con đường để thoát khỏi khổ đau hiện tại. Thôi được, nếu không có sự tiếp diễn của tâm, không có đời sống tương lai, tốt đấy – nếu chúng tacan đảm chúng ta có thể tự chấm dứt đời sống tức thì. Nhưng theo quan điểm của Đạo Phật, điều đó không phải như thế, ý thức của chúng ta sẽ tiếp tục. Ngay cả nếu chúng ta tự kết liễu đời sống của chính mình, kiếp sống này, chúng ta sẽ tiếp nhận một thân thể khác và một lần nữa nó sẽ là cơ sở của khổ đau. Nếu chúng ta thực sự muốn lìa xa tất cả mọi khổ đau, tất cả những khó khăn mà chúng ta trải qua trong đời sống hiện tại, chúng ta phải gạt bỏ được nguyên nhân căn bản, điều đã cho phép hưng khởi những tích tập căn bản của tất cả khổ đau. Giết hại chính mình không đi đến giải quyết những vấn đề của chính ta.

Bởi vì đúng như thế, bây giờ đây chúng ta phải khảo sát nguyên nhân của khổ đau: có một nguyên nhân hay không? Nếu có, nguyên nhân nào là nó: một nguyên nhân tự nhiên, điều không thể bị xóa bỏ, hay một nguyên nhân lệ thuộc trên chính nguyên nhân của nó và vì vậy có thể loại trừ? Nếu có một nguyên nhân có thể vượt qua, là có thể cho chúng ta vượt thắng nó chứ? Vì vậy chúng ta qua đến sự thật thứ hai, chân lý về nguyên nhân của khổ đau.

SỰ THẬT VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU

Phật tử nhớ rằng không có một đấng tạo hóa ngoại tại và mặc dù Đức Phật là một Đấng tối thượng, ngay cả một Đức Phật cũng không có năng lực tạo nên đời sống mới. Vì vậy, bây giờ đây, điều gì là nguyên nhân của khổ đau?

Một cách phổ quát, nguyên nhân căn bản là tâm; tâm bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiêu cực như giận tức, chấp trước, vướng mắc, ghen tỵ v.v… và v.v… là nguyên nhân chính của SINH và tất cả những vấn đề như thế. Tuy nhiên, không có một khả năng nào tự chấm dứt tâm, làm gián đoạn dòng lưu chuyển ý thức. Xa hơn nữa, không có gì sai trong bản chất chiều sâu của tâm, nó chỉ đơn giản là bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tiêu cực. Vì vậy, câu hỏi là chúng ta có thể hay không có thể tranh thủ và giành quyền kiểm soát đối với giận tức, chấp trước, vướng mắc và những tâm thức phiền não tiêu cực khác. Nếu chúng ta nhổ tiệt gốc những thứ đó, chúng ta sẽ chỉ còn lại với một tâm tinh khiết giải thoát khỏi những nguyên nhân của khổ đau.

Điều này đưa chúng ta đến với những tâm thức phiền não tiêu cực, đó là những nhân tố tinh thần. Có nhiều phương thức khác nhau hiện hữu để luận giải về tâm, nhưng, thông thường, tâm tự nó là những gì đơn thuần trong sángtỉnh giác. Khi chúng ta nói năng trong thái độ phiền não bối rối như giận tức và chấp trước, chúng ta phải thấy chúng có thể ảnh hưởng và làm nhiễm ô tâm như thế nào; sự kiện là, điều gì là tính tự nhiên của chúng? Thế thì, đây là những luận giải về nguyên nhân của khổ đau.

Nếu chúng ta hỏỉ những dính mắc, chấp trước và giận tức khởi lên như thế nào? Câu trả lời là chúng chắc chắn được hỗ trợ bởi sự tham đắm những thứ vốn thực sự đúng là của chúng ta. Thí dụ, khi chúng ta giận tức với những điều gì đấy, chúng ta cảm nhận rằng đối tượng ở ngoài đó, chắc chắn, thật sự và không gá ghép, và tự chúng ta giống như những gì chắc thật và có thể tìm thấy. Trước khi chúng ta giận tức, đối tượng xuất hiện bình thường, nhưng khi tâm thức ta bị tác động bởi giận dữ, đối tượng lại được thấy là xấu xa, hoàn toàn ghê tởm, đáng ghét; những gì đấy chúng ta muốn thoát khỏi lập tức – nó xuất hiện thật sự để hiện hữu trong cách ấy: chắc thật, độc lập và rất là không hấp dẫn. Điều xuất hiện ấy của “sự thật xấu xa” đổ dầu vào lửa giận của chúng ta. Tuy vậy khi chúng ta thấy cùng đối tượng ấy ngày hôm sau, khi sự giận tức của ta đã tàn lụi, nó dường như xinh đẹp hơn ngày trước đấy; cùng đối tượng nhưng dường như nó không tệ như vậy. Điều này chỉ cho thấy rằng giận tức và dính mắc đã ảnh hưởng thế nào bởi sự bám víu của chúng ta vào những thứ như hiện hữu thật sự và không thuộc tính.

Vì vậy, luận giải triết học Con đường Trung đạo (trung quán luận) tuyên bố rằng gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực bám víu lấy sự tồn tại thực hữu; điều này hỗ trợ chúng và đưa chúng đến hành động; rằng tâm thức si mê bám víu những thứ như tồn tại cố hữu, thật sự hiện hữu là nguồn gốc căn bản của tất của những khổ đau của chúng ta. Căn cứ trên sự bám víu này như sự tồn tại thực sự chúng ta phát triển tất cả những thứ tâm thức phiền não tiêu cực và tạo nên vô số nghiệp nhân tiêu cực.

Học giả Ấn Độ Chandrakirti, một trong những đại biểu quan trọng của trường phái Trung Ðạo vào thế kỷ thứ tám, ông đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc truyền bá trường phái Trung Ðạo vào đất Tây Tạng. Trong tác phẩm Nhập Trung Đạo [Madhyamakavatara] ông nói rằng, đầu tiên có sự dính mắc vào tự thân, điều rồi thì đi theo bởi sự bám víu những thứ, những việc và trở nên dính mắc với chúng như “cái của tôi”. Trước tiên có một “cái tôi” rất chắc thật, độc lập; nó rất lớn - lớn hơn mọi thứ khác, đây là cơ sở. Từ điều này dần dần đến “đây là của tôi; đây là của tôi; đây là của tôi”. Rồi thì “chúng tôi, chúng tôi, chúng tôi”. Rồi, do bởi sự chọn lựa phía này, đến “những kẻ khác, kẻ thù của chúng ta”. Đối với “cái tôi” và “cái của tôi”, sự dính mắc khởi lên. Đối với ông ấy, bà ấy và họ, chúng ta cảm thấy có khoảng cách và giận tức, rồi thì ganh tỵ và tất cả những cảm giác ganh đua khởi lên. Vì vậy, cuối cùng, vấn đề là: đây là cảm giác của “tôi” – không đơn thuần “cái tôi” nhưng “cái tôi” với điều mà chúng ta trở nên bị ám ảnh. Điều này cho phép khởi lên giận dữ và tức tối, cùng với những lời nói cay nghiệt độc ác và tất cả những biểu lộ vật lý của ác cảm và thù ghét.

Tất cả những hành động tiêu cực này (của thân, miệng và ý) tích lũy nghiệp xấu. Giết hại, trộm cắp, và tất cả những hành động tiêu cực cũng là kết quả từ những động cơ xấu hay bất thiện. Ở cấp độ thứ nhất là tinh thần thuần túy, những tâm thức tiêu cực; cấp độ thứ hai những tâm thức tiêu cực biểu lộ chính chúng trong những hành động, nghiệp. Lập tức không khí bị nhiễu loạn, quấy rầy, mất yên tĩnh. Với giận tức, thí dụ, không khí trở nên căng thẳng, mọi người cảm thấy không thoải mái, bứt rứt, khó chịu. Nếu ai đấy trở nên giận dữ, điên tiết, những người hòa nhã, lịch thiệp cố gắng tránh xa người đó. Cuối cùng, người giận dữ cũng cảm thấy bối rối, ngượng ngịu và xấu hổ vì đã nói tất cả những thứ vô lý, ngớ ngẩn, lố bịch, bất cứ điều gì thoáng qua tâm tư người ấy. Khi chúng ta tức giận, không có không gian cho tình lý hay lý trí, người ấy trở nên thật sự cuồng dại. Sau đấy, khi tâm tư ta trở lại bình thường, chúng ta cảm thấy xấu hổ. Không có gì tốt đẹp với giận dữ, tức tối và dính mắc, chấp trước; không có gì kết quả tốt đẹp từ đấy. Chúng có thể khó khăn để kiểm soát, nhưng mọi người có thể nhận thấy rằng không có gì tốt đẹp về chúng. Thế thì, điều này là sự thật chân lý thứ hai. Bây giờ đây, câu hỏi đề ra là những loại tâm thức tiêu cực này có thể hay không thể loại trừ hay chuyển hóa.

CHÂN LÝ VỀ SỰ CHẤM DỨT KHỔ ĐAU

Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự. Vì vậy, chúng ta phải khảo sát tâm thức chấp trước này là đúng hay nó bị thiên kiến, bóp méo, lệch lạc và nhìn những sự kiện sai lầm. Chúng ta có thể làm việc này bằng sự khảo nghiệm làm thế nào để những sự kiện nó được quán sát, lĩnh hội, nhận biết hiện hữu một cách đúng thực như nó là. Tuy nhiên, vì rằng tâm thức này tự nó không thể nhận biết hoặc là nó thấy rõ những đối tượng một cách đúng thực hay không, chúng ta phải dựa trên một loại tâm thức khác. Nếu, trên sự khảo sát, chúng ta khám phá nhiều phương thức giá trị khác để quán sát những thứ, sự kiện, sự vật và rằng tất cả những thứ mâu thuẫn hay phủ định này (phương cáchtâm thức chấp thủ hay dính mắc với chân lý hiện hữu) nhận định hay lĩnh hội những đối tượng của nó, chúng ta có thể nói rằng tâm thức này không thấy thực tại.

Vì vậy, với tâm thức có thể phân tích nguyên tắc cơ bản, chúng ta phải cố gắng để quyết định hoặc là tâm thức chấp trước những sự kiện có thể khám phá thực sự là đúng hay không. Nếu nó là đúng, tâm thức phân tích có thể cuối cùng tìm ra những sự kiện chấp trước. Duy tâm luận [Cittamatra], hay Duy thức luận, và đặc biệt là, Trung quán luận chứa đựng nhiều đoạn nghị luận của sự tiến hành những khảo nghiệm như thế. Theo những điều này, khi chúng ta khảo sát để thấy hoặc là tâm thức chấp trước sự việc như vốn đã khám phá là đúng hay không, chúng ta thấy rằng nó không đúng, rằng nó bị bóp méo, thiên lệchchúng ta không thể thật sự tìm thấy những đối tượng tại điều nó chấp trước, níu lấy. Vì lẽ tâm thức này bị đánh lừa bởi đối tượng của nó và nó phải được loại trừ.

Vì vậy, qua khảo nghiệm chúng ta thấy không có giá trị hỗ trợ cho tâm thức chấp trước nhưng chúng ta tìm thấy một sự hỗ trợ của sự suy luận hợp lý cho tâm thức, tâm mà nhận thấy rằng tâm thức chấp trước không có giá trị. Trên mặt trận tâm linh, tâm thức được hỗ trợ bởi sự hợp lý (logic) thì luôn luôn thắng lợi trước tâm thức không có sự hỗ trợ hợp lý. Sự hiểu biết rằng không có sự kiện như những cấu trúc tồn tại thật sự có thể tìm thấy trong tính tự nhiên trong suốt sâu thẩm của tâm; tâm thức chấp trước những sự kiện khi sự thực có thể khám phá là cạn cợt trên bề mặt và thoáng qua.

Khi chúng ta loại trừ những tâm thức phiền não tiêu cực, nguyên nhân cuả tất cả khổ đau, chúng ta cũng loại bỏ được khổ đau như vậy. Đây là sự giải thoát, hay sự chấm dứt khổ đau; chân lý cao quý thứ ba. Vì lẽ nó có thể đạt đến điều này, giờ đây, chúng ta phải xem xét đến phương pháp. Điều này đưa chúng ta đến chân lý cao quý thứ tư.

CHÂN LÝ VỀ CON ĐƯỜNG CHẤM DỨT KHỔ ĐAU

Khi chúng ta nói về những con đường thông dụng của ba thừa Đạo PhậtTiểu thừa, Đại thừaKim cương thừachúng ta liên hệ đến ba mươi bảy nhân tố hay 37 phẩm trợ đạo, điều đưa đến giác ngộ. Khi chúng ta nói một cách đặc biệt đến những con đường của bồ tát thừa [Mahayana] chúng ta liên hệ đến mười trình độ (thập địa) và sáu siêu việt toàn hảo (lục ba la mật).

Chúng ta thấy sự thực hành của Theravada Thượng tọa bộ thông dụng hầu hết ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan,v.v… Nơi đây, hành giả được thúc đẩy bởi sự khát khao đạt đến giải thoát từ chính sự khổ đau của họ. Quan tâm cho chính họ đơn độc, họ thực hành ba mươi bảy yếu tố giác ngộ, điều này liên hệ đến năm con đường: tứ chính cần (con đường cận tiến), tứ như ý túctứ niệm xứ (con đường tích lũy), ngũ cănngũ lực (con đường chuẩn bị), thất giác chi (con đường quán sát) và bát chính đạo (con đường thiền định). Trong phương pháp này, họ có thể hoàn toàn chấm dứt những tâm thức phiền não tiêu cựcđạt đến sự giải thoát cá nhân. Đây là con đường và kết quả của Thinh văn giác.

Quan tâm chính của những hành giả đạo Phật phát triển là không chỉ vì sự giải thoát của chính họ, nhưng là sự giác ngộ vì tất cả chúng sinh. Với động cơ của tâm giác ngộ hay tâm bồ đề - con tim của họ, thâm tâm của họ được khuyến tấn, đề khởi đạt đến sự giác ngộ với một ý niệm tuyệt hảo để hỗ trợ những người khác – những hành giả này thọ trì sáu siêu việt toàn hảo và tiến trình dần dần qua mười trình độ cuả bồ tát cho đến khi người ta hoàn toàn vượt thắng cả những loại chướng ngạiđạt đến giác ngộ tối thượng của Phật quả. Đây là con đường và kết quả của đạo Phật phát triển.

Căn bản thiết yếu của thực hành sáu siêu việt toàn hảo là sự kết hợp của phương pháptuệ trí vì vậy hai thân giác ngộ - sắc thânpháp thân – (rupakaya và dharmakaya)— có thể đạt đến. Vì lẽ họ có thể đạt đến chỉ cùng một lúc, những NHÂN của họ phải được tu dưỡng phát triển cùng một lúc. Vì vậy, tổng hợp chúng ta phải xây dựng lên một kho tàng công đức – như là NHÂN của sắc thân, thân thể sắc tướng (rupakaya) -và một kho tàng của sự tĩnh giác thâm sâu hay sự hiểu thấu sáng suốt bên trong- như là NHÂN của pháp thân (dharmakaya), thân thể của tuệ trí. Trong Ba la mật thừa (Paramitayana, hay Kinh thừa, Toàn thiện thừa), chúng ta thực hành phương pháp được hiểu thấu bởi tuệ trítuệ trí được hiểu thấu bởi phương pháp, nhưng trong Kim cương thừa chúng ta thực hành phương pháptuệ trí như là một trong tính tự nhiên.

The Four Noble Truths
His Holiness the Dalai Lama 

His Holiness the Dalai Lama gave this teaching in Dharamsala, 7 October 1981. It was translated by Alexander Berzin, clarified by Lama Zopa Rinpoche, edited by Nicholas Ribush and first published in the souvenir booklet for Tushita Mahayana Meditation Centre's Second Dharma Celebration, November 5-8 1982, New Delhi, India.

Published in 2005 in the LYWA publication Teachings From Tibet.

http://www.lamayeshe.com/otherteachers/hhdl/4noble_truths.shtml

Tuệ Uyển chuyển ngữ
02-09-2008

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26640)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13057)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27021)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32856)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31656)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32582)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13023)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12142)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17497)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18724)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12573)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11777)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13127)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12208)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12492)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11633)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11988)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10605)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10931)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28323)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11174)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13598)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11040)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11433)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10900)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11185)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26350)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14885)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11062)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20330)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12359)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11474)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10766)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23911)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11851)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12302)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12832)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11047)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38728)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10535)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12193)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17704)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25047)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10552)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10754)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12050)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11308)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14739)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21440)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9900)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11263)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27365)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11180)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11840)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11009)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14310)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11476)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant