Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xá lợi của Đức Phật

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11476)
Xá lợi của Đức Phật


1. Định nghĩa Xá Lợi

Tiếng Phạn Sarìra, Pàli Sarìra có nghĩa là tử thi, di cốt: dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân. Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại.

Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi là Tháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi là Hội xá lợi.

Trong tiếng Phạn còn một từ nữa cũng được dùng chỉ cho xá lợi, đó là Dhàtu, phiên âm là Đà đô. Chữ Đà đô này có nghĩa là Toái thân xá lợi. Bản chú thích kinh Trường Bộ thuộc văn hệ Pàli ghi rằng thân thể hoạn chỉnh sau khi hỏa thiêu, phần di cốt còn lại gọi là Toàn thân xá lợi; phần tro còn lại gọi là Toái thân xá lợi.

Ngoài ra, nếu đem di cốt toàn thân tôn trí vào một ngôi tháp thì gọi là tháp Toàn thân xá lợi; còn tôn trí một phần di cốt vào tháp thì gọi là tháp Toái thân xá lợi. Thuyết Toàn thân, Toái thân xá lợi này bắt nguồn từ hai phương pháp thổ táng và hỏa táng của phái Lê Câu Phệ Đà thuộc thời kỳ cổ đại Ấn Độ. Họ gọi di thể thổ táng là Toàn thân xá lợihỏa táng Toái thân xá lợi.

2. Phân loại Xá Lợi

Theo kinh Dục Phật Công Đức thì xá lợi được chia thành hai loại là Sinh thân xá lợiPháp thân xá lợi.

- Sinh thân xá lợi còn gọi là Thân cốt xá lợi, tức là di cốt của Phật.
- Pháp thân xá lợi còn gọi là Pháp tụng xá lợi, tức là Giáo phápGiới luật của Phật còn lưu truyền lại.

Pháp Uyển Châu Lâm quyển 4 chia xá lợi làm ba loại: Xá lợi xương, xá lợi tóc xá lợi thịt.

- Xá lợi xương có màu trắng.
- Xá lợi tóc có màu đen.
- Xá lợi thịt có màu đỏ.

3. Giá trị của Xá Lợi

Kinh Kim Quang Minh quyển 4, phẩm Xả thân (Đ.16, 354) viết: "Xá lợi là kết tinh công phu tu tập Giới, Định, Tuệ, rất khó được, là phước điền tối thượng". Vì vậy có chỗ nói: Lễ bái di thân của Phật, lễ bái cây bồ đề chỗ Phật thành đạo, lễ bái tòa kim cươngdấu chân của Phật đi kinh hành đều có công đức như nhau.

Luận Đại Trí Độ quyển 59 chép rằng: Dù cúng dường một viên xá lợi nhỏ như hạt cải công đức cũng vô lượng, vô biên.

4. Sự tích chia Xá Lợi của Phật

Kinh Trường Bộ ghi lại việc 8 nước chia xá lợi của Thế Tôn khá tường tận: Sau khi làm lễ trà tỳ nhục thể Thế Tôn, những người Mallà xứ Kusinàrà tôn trí xá lợi Thế Tôn trong giảng đường, thành kính lễ bái, dâng hương hoa, cử lễ nhạc, múa hát cúng dường; đồng thời bảo vệ xá lợi một cách nghiêm ngặt.

 

Vua Ajàtasattu nước Magadha hay tin Thế Tôn đã diệt độ tại Kusinàrà, liền gởi sứ giả đến thỉnh cầu người Mallà: "Thế Tôn lạ người Sát đế lỵ, tôi cũng là người Sát đế lỵ, do vậy, tôi cũng đáng được một phần xá lợi của Thế Tôn để xây tháp cúng dường". Tiếp đến người Licchavì ở Vesàli; người Sakyà ở Kapilavatthu; người Buli ở Allakappa; người Koli ở Ràmagàma; Bà la môn Vethadìpaka ở Vethadìpa và người Mallà ở Pàvà cũng đều gởi sứ giả đến yêu cầu như trên. Nhưng các người Mallà ở Kusinàrà tuyên bố rằng: "Đức Thế Tôn đã diệt độ tại quê hương chúng tôi, nên chúng tôi có bổn phận bảo quản cúng dường xá lợi, không chấp nhận chia cho ai cả".

 

Thấy tình hình có vẻ gay cấn, Bà la môn Dona khuyên mọi người giữ bình tĩnh, không nên nóng nảy manh động, rồi ông đích thân chia xá lợi làm 8 phần bằng nhau, giao cho 8 sứ giả, còn phần ông nhận bình dùng đong chia xá lợi.

Việc chia xá lợi vừa kết thúc thì sứ giả của người Moriyà cũng vừa tới nơi đưa ra thỉnh nguyện của mình. Nhưng khi ấy, xá lợi đã chia hết chỉ còn lại tro than trà tỳ mà thôi. Do đó, sứ giả Moriyà ở Pipphalivana nhận lấy phần tro than ấy.

 

Thế là, ai nấy đều hoan hỷ thỉnh xá lợi về xứ mình xây tháp cúng dường. Vua Ajàtasattu cho xây tháp tại thành Vương Xá. Người Licchavi xây tháp tại Vesàli. Người Sakya xây tháp tại Kapilavatthu. Người Buli xây tháp tại Allakappa. Người Koli xây tháp tại Ràmagàma. Bà la môn Vethadìpaka xây tháp tại Vethadìpa. Người Mallà ở Pàvà xây tháp tại Pàvà. Người Mallà ở Kusinàrà xây tháp tại Kusinàrà. Bà la môn Dona xây tháp tại khu vườn nhà mình. Người Moriyà xây tháp tại Pipphalivana.

 

Như vậy có 8 tháp xá lợi, tháp thứ 9 là bình đong xá lợi và tháp thứ 10 là tro than lễ trà tỳ.

 

Ngoài ra, kinh này còn nói rằng một phần xá lợi giao cho Long vương và răng xá lợi được cúng dường tại cõi trời Đế Thích. [Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn, từ số (24) đến hết, Viện NCPHVN ấn hành 1991].

 

Liên quan đến 8 tháp xá lợi này có nhiều truyền thuyết khác nhau. Vào năm 1898, một người Pháp là Ba Túc (W.C. Peppé) khai quật một ngôi mộ cổ tại Pipràvà, phía Nam nước Ni Bạc Nhĩ, được một hòm lớn, trong đó có hai hộp bằng sáp ong, một tráp nhỏ và mấy mảnh bể của bình đựng nước. Hai hộp sáp ong thì một lớn, một nhỏ đều đựng những mảnh xương. Hộp nhỏ có hình dáng quả cầu, ngăn thành hai phần, nửa phần trên là nắp đậy. Trên nắp khắc hai hàng chữ Brahmi thuộc thời đại vua A Dục. Nội dung nói: "Đây là chiếc hòm đựng xá lợi Phật của một nhà quí tộc thuộc dòng họ Thích Ca cùng em gái và vợ con ông lưu giữ thờ phụng". Dữ kiện này cho ta suy đoán đây là một trong 8 phần xá lợi mà người họ Thích nhận được trong dịp 8 nước phân chia xá lợi của Phật. Qua sự phát hiện này chứng tỏ các kinh Trường Bộ v.v... nói về việc chia xá lợi Phật là đúng sự thật. Miếng xương ấy về sau Chính phủ Anh đem tặng lại vua Tân La, nhà vua lại đem một phần tặng lại các nước Sri Lanka, Myanmar và Nhật Bản.

 

Ngoài ra, vào thời vua A Dục, ông đã cho khai quật 7 ngôi tháp xá lợi ngoài phạm vi nước La Ma Già, lấy xá lợi đựng vào 84.000 hộp nhỏ, rồi cho xây 84.000 bảo tháp cúng dường.

5. Xá Lợi Phật tại vài nước Phật giáo

a) Tại Sri Lanka (Tích Lan): Theo Đại sử thuộc văn hệ Pàli thì khi Ma Sẩn Đà (Mahinda) con vua A Dục đến Tích Lan truyền giáo, vua nước này là Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya-Tissa) đã cầu xin vua A Dục ban cho xá lợi của Phật. Sau khi nhận được xá lợi, ông đã tổ chức lễ cung đón cực kỳ trang nghiêm.

 

Ngoài ra, trong Điều Sư Tử quốc (Tích Lan) thuộc Truyện Cao tăng Pháp Hiển chép: Trong thành của vị vua này có tinh xá răng Phật. Đại Đường Tây Vức ký quyển 11 cũng chép: Bên cạnh vương cung nước Tích Lantinh xá răng Phật.

b) Tại Tây Vức: Ở Tây Vức cũng có truyền thống cúng dường xá lợi Phật, như Truyện Pháp Hiển chép: Trong thành Ê Labiên giới nước Na Kiệt có Phật đỉnh cốt tinh xá. Điều Ca Tất Thí quốc trong Tây Vức ký quyển 1 chép rằng tại nước này có ngôi tháp do Long vương kiến tạo, nơi đây dùng để cúng dường xá lợi thịt xương của Phật. Trên bờ phía Nam của một con sông lớn ở Tây Bắc vương thành có một ngôi già lam của vị cựu vương, trong đó tôn trí một miếng xương đầu của Phật.

c) Tại Trung Quốc: Sách sử nước này ghi chép khá nhiều trường hợp do lòng chí thành mà cảm được xá lợi, như Xuất Tam Tạng ký tập quyển 13 ghi: Khi Khương Tăng Hội đến Giang Đông, yết kiến vua nước Ngô là Tôn Quyền, vua hỏi về sự linh nghiệm của Phật, Hội xin hẹn trong 21 ngày để cầu nguyện, quả nhiên cảm được xá lợi. Vua nghi ngờ, sai lực sĩ dùng dùi sắt đập phá, nhưng xá lợi chẳng hề hấn gì, khiến vua rất thán phục, bèn cho xây chùa Kiến Sơ để phụng thờ. Đây là ngôi chùa thờ xá lợi Phật đầu tiên tại Trung Quốc.

 

Lại nữa, Quảng Hoằng Minh tập quyển 17, tập Thần Châu Tam Bảo Cảm Thông Lục quyển thượng, Pháp Uyển Châu Lâm quyển 38, 40 đều có chép những sự thần dị của xá lợi và việc kiến tạo tháp cúng dường từ đời Tấn, đời Lưu Tống trở về sau.

Tây Vức ký quyển 12 chép: Khi Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang du học Tây Vức trở về nước có thỉnh về 150 viên xá lợi của Phật. Tống Cao tăng truyện quyển 1 cũng cho biết Nghĩa Tịnh đời Đường khi về nước cũng mang về 300 viên xá lợi.

 

Theo Quảng Hoằng Minh tập quyển 15 thì chùa Pháp Môn ở Kỳ Dương là một trong 19 bảo tháp xá lợi. Năm 574, vua Vũ Đế Bắc Chu xuống chiếu hủy diệt Phật giáo thì xá lợi nơi đây được cất giấu kỹ. Đến năm Hiển Khánh thứ tư (659), vua Đường cho đạo dưới chân tháp, được 8 viên xá lợi. Năm sau, vua cho rước xá lợi vào Đại Nội ở Đông Đô để cúng dường, rồi năm Long Sóc thứ hai (662), rước về lại chùa cũ. Đến năm Nguyên Hòa 14 (819), vua Đường Hiến Tông lại ra lệnh thỉnh xá lợi vào trong cung. Lúc ấy, Hàn Dũ viết "Phật cốt biểu" chỉ trích việc này, ông nói rằng Phật là người Di Địch, không nên đem xương khô của Ngài vào trong cung vua mà nên đem đốt hay vứt xuống nước cho tuyệt tích. Vua nổi giận đày ông đến Triều Châu làm Thứ sử, rồi sai Trương Trọng soạn "Phật cốt bi".

 

d) Tại Nhật Bản: Ở nước này cũng có những hiện tượng do cảm ứng mà được xá lợi, như điều 13 Mẫn Đạt Thiên Hoàng thuộc quyển 20 Sử Nhật Bản chép: Tư Mã Đạt tổ chức trai hội, do lòng chí thành mà cảm được xá lợi, rồi ông đem trình quan Đại thần Tô Ngã Mã Tử, Mã Tử bèn dùng dùi sắt đập thử mà không hư hao gì, ông lại đem vứt xuống nước, xá lợi cũng không chìm.

 

(Còn xá lợi Phật tại Việt Nam, xin hẹn một dịp khác sẽ trình bày).

 

*

 

Giờ đây, cách Phật ra đời hơn 25 thế kỷ, muốn được đảnh lễ, cúng dường xá lợi của Phật không phải là chuyện dễ. Nếu như chúng ta chưa được diễm phúc trực tiếp chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường Sinh thân xá lợi của Phật thì chúng ta cũng nên thành tâm đảnh lễ, cúng dường Pháp thân xá lợi của Phật. Vì công đức đảnh lễ, cúng dường Sinh thân xá lợi Phật chủ yếu phát xuất từ tha lực, còn công đức đảnh lễ, cúng dường Pháp thân xá lợi của Phật thì chủ yếu phát xuất từ tự lực của mỗi chúng ta.

 

(Theo Phật Quang đại từ điển, Đài Bắc, Từ Di chủ biên, Phật Quang Sơn xuất bản, 1989, tr. 3495 và một số tư liệu khác).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12797)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26641)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13058)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27021)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32856)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31656)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32582)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13023)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12143)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17497)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18726)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12573)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11777)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13127)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12208)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12492)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11633)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11989)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10605)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10931)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28324)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11174)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13598)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11040)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11433)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10900)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11185)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26350)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14885)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11062)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20331)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12359)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11474)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10766)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23911)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11851)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12302)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12833)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11047)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38729)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10535)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12194)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17705)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25047)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10553)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10755)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12050)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11309)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14739)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21441)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9900)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11264)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27365)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11180)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11840)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11009)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14311)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant