Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Phật giáo Việt Nam

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 11642)
08. Phật giáo Việt Nam

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 1: ĐẠI CƯƠNG

Phật giáo Việt Nam

I.- Thời kỳ khởi thủy

Căn cứ theo sách LÝ HOẶC LUẬN của Mâu Tử, một cuốn sách nói về Phật Giáo ở đất Giao Châu (Việt Nam thời Bắc thuộc), khi ông cũng như một số người chạy sang Việt Nam để lánh nạn giặc giả bên Trung Quốc, Mâu Tử cùng mẹ đến đây vào khoảng năm 195, nội dung LÝ HOẶC LUẬN cho thấy Phật Giáo ở Giao Châu lúc đó đã được truyền bá từ lâu. Lại nữa, có Khương Tăng Hôi, gốc người Ấn, cha mẹ đến Giao Châu buôn bán, có thể ông sinh tại đây. Năm lên 10 tuổi, cha mẹ đều qua đời, ông đi tu tại Giao Châu, đến năm 247 sang đất Ngô của Tôn Quyền để truyền bá đạo Phật, ông có dịch kinh từ chữ Phạn ra chữ Hán.

Như vậy chứng tỏ rằng Phật Giáo đã được truyền sang Việt Nam, do các nhà sư người Ấn từ thế kỷ II. Thời đó Luy Lâu (huyện Thuận Thành tỉnh Hà Bắc ngày nay) là một trung tâm chính trị (trị sở của Thái Thú), thương mãi (nơi tập trung buôn bán, trao đổ hàng hóa với Trung Quốc và Ấn Ðộ), tôn giáo (đạo Phật, Khổng, Lão).

Về sau, nhiều nhà sư Ấn Ðộ khác, theo đường biển đến Giao Châu rồi mới sang Trung Hoa truyền đạo, nhiều vị Tăng Trung Quốc đi sang Ấn Ðộ để chiêm bái Phật tích và học tập, thu thập kinh điển, gọi là "Nhập Trúc cầu Pháp", cũng ghé qua Giao Châu trước khi đến Ấn Ðộ.

II.- Phật Giáo Trung Quốc truyền sang Việt Nam

1) Thời kỳ đầu: Phật Giáo Trung Quốc khởi thủy truyền vào Việt Namthời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai, dưới thời cai trị của Thái Thú Sĩ Nhiếp (187-226). Còn bên Trung Hoa, vào năm 67, Vua Minh Ðế đời Hậu Hán có sai Tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh cả thảy 18 người sang Tây vực thỉnh kinh, dọc đường họ gặp hai Ngài Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan tải kinh bằng ngựa trắng đi về phía Ðông truyền đạo, họ đã thỉnh hai vị nầy về Trung Quốc, Vua cho lập môt nơi đẻ thờ Phật và dành cho hai vị này ở để dịch kinh, được đặt tên là Bạch Mã Tự. Mặc dù vậy, năm 247 Khương Tăng Hội từ đất Giao Châu, sang Ðông Ngô truyền đạo, chứng tỏ Phật Giáo Trung Hoa chưa phát triển. Việt Nam sau đó có ngài Chi Lương Cương đến truyền đạo năm 255 và ngài Ma Ha Kỳ Cực đến Việt Nam năm 294, sự tích của ngài có ghi lại truyện Man Nương trong sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp.

Phật Giáo Việt Nam thời kỳ sau đó, có những vị Tăng thông cả chữ Phạn và Hán, nên cũng đã đi "Nhập Trúc cầu Pháp" như là ngài Văn Kỳ, Khuy Xung, Huệ Diệm, Trí Hành, Mộc Xoa Ðề (Việt Nam), Ðại Thặng Ðăng.

2) Thiền Tôn Truyền Sang Việt Nam: Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Quốc năm 520, để truyền bá Phật Giáo, vua Lương Võ Ðế có thỉnh ngài vào cung giảng đạo, tiếc rằng vua không được khai ngộ, sau ngài đến Tung Sơn truyền Y Bát cho Huệ Khả, ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là vị Tổ truyền thừa thứ 28 kể từ Tổ Ca Diếp trở xuống, cũng là vị Ðệ nhất tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Khoảng cuối thế kỷ IX, Thiền Tông Trung Hoa chia thành 5 tôn: Qui ngưỡng tôn, Lâm tế tôn, Pháp nhãn tôn, Vân môn tôn và Tào động tôn. Thiền Tôn là một trong nhiều tông phái Phật Giáo của Trung Hoa.

A) Phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi: Việt Nam, trước tiênđệ tử của Ðệ tam tổ Tăng XánTì Ni Ða Lưu Chi, sang ở Chùa Pháp Vân năm 580, để truyền bá Thiền Tông, ông là người Nam Ấn, đến Trường An năm 574, sau đó thụ pháp với ngài Tăng Xán, được truyền tâm pháp, rồi sang Việt Nam lập thành phái Thiền Tì Ni Ða Lưu Chi.

Phái nầy truyền thừa đến đời thứ 19 là Thiền Sư Y Sơn, ngài tịch năm 1213 và thất truyền từ đó. Phái nầy có những Thiền Sư như Pháp Thuận đời thứ 10, được vua Lê Ðại Hành sắc phong ngài giữ việc tiếp đón Sứ thần Trung Hoa, sư Vạn Hạnh đời thứ 12, được vua Lý Thái Tổ phong làm quốc sư và Ngài Viên Thông đời thứ 18, cũng được vua Lý Anh Tông sắc phong quốc sư.

B) Phái Vô Ngôn Thông: Ðệ tử của Tổ Bách Trượng đời thứ 9 là Thiền sư Vô Ngôn Thông, ngài đến Việt Nam năm 820, truyền được đến đời thứ 15 thì bị thất truyền.

Phái nầy có ngài Ngô Chân Lưu được vua Ðinh Tiên Hoàng phong làm Tăng Thống, sau lại phong tức hiệu Khuông Việt Ðại Sư, Mãn Giác Thiền sư cũng thuộc phái nầy, vua Lý Thái Tông thụ giáo với thiền sư nầy.

C) Phái Thảo Ðường: Minh Giác Thiền Sưđệ tử của ngài Tuyết Ðậu, húy Trọng Hiển, hiệu Ẩn Chi tu ở núi Tuyết Ðậu, từ Trung Hoa sang Chiêm Thành truyền Ðạo. Năm 1044, Lý Thánh Tông đánh Chiêm, quân ta bắt được tù binh đem về kinh trong đó có Minh Giác thiền sư, về sau biết ngài là thiền sư Trung Hoa liền thả ra, ngài thành lập phái thiền Thảo Ðường và vua Lý Anh Tông phong cho ngài là Minh Giám Ðại sư, Vua Lý Thánh Tông cũng thụ giáo với phái Thảo Ðường, phái nầy truyền đến 5 đời thì dứt.

Thiền Tông sau khi phân phái, những phái Tào động, Lâm Tế... đều có truyền đến Việt Nam nhưng chỉ có phái Lâm tếthịnh hành hơn cả, ngày nay vẫn còn truyền thừa.

III.- Phật Giáo qua các thời đại.

1) Thời kỳ Bắc Thuộc đến cuối nhà Ngô (43-965): Phật Giáo du nhập vào Việt Namthời kỳ nước ta bị Trung Quốc đô hộ, có các nhà sư Ấn Ðộ, Trung Hoa sang truyền đạoViệt Nam. Ðến đời Lý Nam Ðế (544-548) có phái Thiền Tì Ni Ða Lưu Chi đựơc thành lập, thời kỳ nầy có 6 vị Tăng Việt Nam "Nhập Trúc cầu Pháp".

2) Nhà Ðinh (968-980): Ðinh Tiên Hoàng có nhiệt tâm với Phật Giáo, phong cho ngài Chân Lưu chức Tăng Thống lại sắc phong là Khuông Việt Ðại sư, ban cho Tăng Ma Ni tước hiệu Tăng Lục Ðạo Sĩ và ngài Huyền Quang tước hiệu Sùng Chân Uy Nghi, theo đó nhà Ðinh đã định giai cấp Tăng lữ. Có lẽ từ đây Phật Giáo Ấn Ðộ đã suy yếu dần, nên không có các nhà sư sang truyền đạoViệt Nam. Riêng Trung Quốc vẫn tiếp tục truyền bá đạo sang Việt Nam.

3) Nhà Tiền Lê (980-1009): Vua Lê Ðại Hành thường thỉnh Tăng Thống vào triều để bàn hỏi việc nước, sau khi hòa với nhà Tống, vua sai sứ sang Trung Hoa thỉnh Ðại Tạng kinh.

4) Nhà Lý (1010-1225):Thái Tổ tức Lý Công Uẩn, ngài là con nuôi của sư Lý Khánh Vân, cho nên sau khi lên ngôi ngài lo hoằng dương chánh pháp, xây cất chùa chiền, sai sứ sang Trung Hoa thỉnh kinh. Trong thời kỳ nầy có Vạn Hạnh Thiền sư. Bốn vị vua đầu nhà Lý đều có nhiệt tâm pháp triển Phật Giáo.

Năm 1049, vua Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột ở Hà Nội ngày nay. Lý Thánh Tông được đắc pháp với phái Thảo Ðường. Bốn vị vua sau vẫn tôn sùng Ðạo Phật, nhưng không có gì xuất sắc. Riêng Huệ Tông, năm 1224, sau khi nhường ngôi cho Lý Chiêu Hoàng, rồi xuất gia tu ở chùa Chân Giáo tự xưng là Huệ Quang Ðại Sư, sau bị Trần Thủ Ðộ ép, ông phải treo cổ tự tử.

5) Nhà Trần (1225-1400): Trần Thái Tông rất mộ đạo, có lần ông bỏ ngôi vua, lên núi Yên Tử tu, Thủ Ðộ phải ép ngài về cung, Thái Tông có viết 2 cuốn sách: Thiền Tông Chỉ Nam là sách nói về Thiền, còn Khóa Hư Lục giải rõ về hình tướng của Tứ Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử.

Sau khi nhường ngôi cho con năm 1293, đến năm 1299, Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu lấy pháp hiệuTrúc Lâm Ðại Sĩ biệt hiệu là Hương Vân Ðại Ðầu Ðà, cũng được tôn xưng là Trúc Lâm Ðiều Ngự, ông lập phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nhiều người cho rằng đây là Thiền Tông Việt Nam. Hồi còn là Thái Tử, ông đã được cậu ruột là Tuệ Trung Thượng Sĩ giảng dạy về giáo lý Ðạo Phật. Sau đó ông truyền tâm pháp cho Pháp Loa, Pháp Loa truyền cho Huyền Quang, khi ấy Huyền Quang đã 77 tuổi, không thích hợp "Tổ đăng truyền", ông lui về Côn Sơn tu được 4 năm thì tịch, dòng Trúc Lâm thất truyền. Ðến Trần Anh Tôn, Phật Giáo bị pha trộn ngoại đạo và vì Nho học hưng thịnh, nên Phật Giáo dần dần suy yếu.

6) Nhà Hồ (1400-1407) và thuộc nhà Minh (1414-1427): Hồ Qúy Ly lên ngôi được 7 năm thì nhà Minh sang chiếm nước ta, năm 1416 quân Minh tịch thu hết sách vở, trong đó có cả kinh Phật đem về Kim Lăng, chùa chiền bị đốt phá.

7) Từ Hậu Lê đến Tây Sơn (thế kỷ XV-XVI): Thời gian này, Phật Giáo chỉ là hình thức cho người ta tín ngưỡng mà thôi.

8) Thời Trịnh-Nguyển phân tranh (thế kỷ XVI-XVIII): Ở Ðàng Ngoài, có Hương Hải làm Tri phủ huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sau khi từ quan xuất gia đầu Phật, ông theo học đạo với Thiền Sư Viên Cảnh ở Lục Hồ, được ban pháp danhHương Hải Minh Châu rồi lại học thiền với Thiền Sư Viên Khoan ở Quảng Trị. Sau ông nổi tiếng uyên thâm về Ðạo Phật, được Chúa Trịnh rước ra Bắc và Vua Lê thỉnh vào cung giảng đạo.

Ở Ðàng Trong, có ngài Nguyên Thiều thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33 ở bên Tàu, trước tiên ngài đến chùa Kim Cương ở gần núi Bửu Long, Biên Hòa, nay còn có Tháp của Ngài ở đó (phải chăng là Tháp Vọng ?), sau ra Bình Ðịnh xây chùa Di Ðà, Thập Tháp; rồi ngài lần ra Thừa Thiên lập chùa Hà Trung, cuối cùng đến Kinh Ðô Huế lập chùa Quốc Ấn.

Vua, chúa đều tôn kính đạo Phật, theo đó các quan cũng tin theo, nhờ vậy mà lần lần Phật Giáo đã phục hưng.

9) Nhà Nguyễn (1802-1945): Sau khi Gia Long lên ngôi, cho sửa lại chùa Linh Mụ, vua Thiệu Trị cho xây chùa Diệu Ðế, vùng đất Hoàng Triều cương thổ ở Ðà Lạt có chùa Linh Sơn, ở Ban Mê Thuộc có chùa Khải Ðoan. Hoàng Ðế Bảo Ðại là Hội Trưởng danh dự của An Nam Phật Học Hội, nói chung Phật Giáo triều Nguyễn đều lo xây cất chùa chiền, kính Phật, trọng Tăng.

IV.- Ảnh hưởng của Phật Giáo.

Qua các triều đại, nhiều thời kỳ văn học nghệ thuật, chúng ta thấy Phật Giáo để lại nhiều ảnh hưởng trong đời sống và nền văn hóa Việt Nam, nhiều nhà sư đã được các vị vua phong tặng chức tước như Khuôn Việt Ðại Sư, Vạn Hạnh Quốc Sư, Minh Giám Quốc Sư, Viên Thông Quốc Sư. . . Di tích có Ðài Liên Hoa của Chùa Một Cột, Chùa Linh Mụ (Huế), Chùa Trăm Gian (Hà Tây), Tháp Phổ Minh (Nam Hà), Gác chuông Chùa Keo (Thái Bình) đều là những kiến trúc nghệ thuật, trong Ca dao và thi ca của Mãn Giác, Huyền Quang Thiền sư. . . còn có tác phẩm của Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều. . . đều toát lên giáo lý Ðạo Phật, ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống dân gian Việt Nam.

V.- Công cuộc chấn hưng Phật Giáo

Từ Phật Giáo Tích Lan chấn hưng, những bài báo của các bậc trí giả viết bằng Anh ngữ về Phật Giáo Tích Lan, đã được phổ biến sang Anh Quốc, các nhà trí thức Âu Mỹ đần dần biết đến Phật Giáo, Phật Giáo bắt đầu truyền sang Tây phương.

Ở Trung Hoa, Phật Giáo cũng được chấn hưng, nhờ vậy mà nó gây ảnh hưởng cho các bậc trí giả Việt Nam theo phái tân học, làm cho Phật Giáo Việt Nam chuyển mình phục hưng vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 20.

Năm 1920, một số trí giả cùng hai vị Tăng là ngài Khánh Hoà và Thiện Chiếu lập ra HộI Lục Hoà, mục đích là đoàn kết, giúp đỡ và tìm hiểu tình hình Phật Giáo trên thế giới và trong nước. Sư Khánh Hoà chủ trương tạp chí Pháp Âm, sư Thiện Chiếu là giáo thọ chùa Linh Sơn Sàigòn ra nội san Phật Hoá Tân Thành Niên, phương tiện truyền bá là chữ quốc ngữ dễ phổ biến đến đại chúng và những người tân học.

Năm 1928, Hòa Thượng Khánh Hoà cùng Hòa Thượng Huệ Quang (Trà Vinh), Hòa Thượng Từ Nhẫn (Long An), Chơn Huệ (Mỹ Tho), Thiện Chiếu (Sàigòn), Cư sĩ Còm-mi Trần Nguyên Chấn, Thái Bình Ngô Văn Chương tổ chức Lâm Thời Phật Học Viện và Thư xã phường tại chùa Linh Sơn, sau đó ấn hành tạp chí Pháp Âm, số ra mắt ngày 31-8-1929.

Ðến năm 1930, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được thành lập tại chùa Linh Sơn Sàigòn, lãnh đạoHòa Thượng Khánh Hòa, Huệ Quang, Trí Thiền, Còm-mi Trần Nguyên Chấn, đến ngày 26-8-1931 Hội mới được Thống Ðốc Nam Kỳ ký giấy phép. Hội xuất bản tạp chí Từ Bi Âm, thỉnh Tam Tạng kinhTrung Quốc. Cũng năm nầy, Thiền Tông Giáo Hữu Hội do Hòa Thượng Tuệ Ðăng, trụ trì chùa Thiên Thai Bà Rịa thành lập, Hội xuất bản tạp chí Bát Nhã Âm.

Năm 1933 Hòa Thượng các chùa Long Hòa (Trà Vinh), Thiên Phương (Trà Ôn), Viên Giác (Bến Tre) thành lập Liên Ðoàn Học Xã có mục đích nghiên cứu giáo lýđào tạo tăng ni.

Năm 1933, HT Khánh Anh rời khỏi Sàigòn, về Hậu Giang để cùng HT Huệ Quang, ông huyện Huỳnh Thái Cửu, ông Ngô Trung Tín thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tại Trà Vinh, giấy phép do Thống Ðốc Nam Kỳ ký ngày 1-3-1934. Hội có mục đích sưu tầm kinh điển, đào tạo tăng tài. Năm sau mở Phật Học Ðường và tạp chí Duy Tâm Phật Học. Một số Tăng được Hội chọn gửI ra Phật Học Ðường Tây Thiên của Sơn Môn ở Huế, để tu học như Hoà Thượng Thiện Hoà, Thiện Hoa. . .

Ở Trung Kỳ năm 1932, An Nam Phật Học Hội được thành lập tại chùa Trúc Lâm, sau dời về Từ Quang. Năm 1938 dời về chùa Từ Ðàm. Hội do HT Giác Tiên và Cư sĩ Tâm Minh tức Bác sĩ Lê Ðình Thám đứng đầu thành lập, năm sau Hội xuất bản tạp chí Viên Âm, Hội đã thành lập Ban Ðồng Ấu Phật Giáo năm 1932, Ðoàn Phật Học Ðức Dục, năm 1943 thành lập Gia Ðình Phật Hóa Phổ, đến năm 1951 đổi danh xưng là Gia Ðình Phật Tử, một đoàn thể giáo dục Thanh Thiếu Niên rất hữu ích. Hội mở trường Bồ Ðề để đào tạo Tăng Ni; sau lại mở Phật Học Ðường Bảo Quốc.

Sơn Môn Huế (Tăng già) có trường Tây Thiên, do HT Phước Huệ ở chùa Thập Tháp Bình Ðịnh được HT Giác Tiên mời ra làm Ðốc giáo và giảng dạy.

Ở Bắc, Bắc Kỳ Phật Giáo Hội được thành lập vào ngày 23-12-1934, nhằm ngày vía Ðức Phật A Di Ðà 17-11 năm Giáp Tuất, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ Hà Nội, do Tổng Ðốc hồi hưu Nguyễn Năng Quốc làm Hội Trưởng. Năm sau Hội xuất bản tạp chí Ðuốc Tuệ, ngoài ra còn có các tạp chí Bồ Ðề Tân Thanh và Tiếng Chuông Gọi Sớm do các cư sĩ chủ trương. Hội mở trường Tăng tại chùa Quán Sứ, trường Ni tại chùa Bồ Ðề, lập Cô Nhi Viện cũng tại chùa Quán Sứ, những vị đứng đầu Hội có HT Vĩnh Nghiêm, Thanh Hạnh, Tuệ Tạng, Mật Ứng, Ðức Nhuận, Tố Liên, Trí Hải, cư sĩ có các ông Nguyễn Năng Quốc, Thiền Chửu, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Trần Trọng Kim, Trần Văn Giáp, Phan Kế Bính, Bùi Thiện Cơ. Tháng 5 năm 1945 đổi ra Hội Việt Nam Phật Giáo.

Năm 1950, Việt Nam tham gia Hội Nghị Phật Giáo, họp tại Colombo, Thủ đô Tích Lan để thành lập Hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới, Việt Nam là Hội viên sáng lập Hội nầy.

Ngày 25-2-1951, Hội Phật Học Nam Việt do một số quý vị Tăng Giàcư sĩ thành lập tại chùa Khánh Hưng (390/8 Lê Văn Duyệt,Q.3), sau dời về chùa Phước Hoà (491/14/5 Nguyễn Ðình Chiểu Q.3), sau cùng năm 1958, lại dời về chùa Xá Lợi. Hội đầu tiên do Bác sĩ Nguyễn Văn Khoẻ làm Hội Trưởng, kế tiếp là Thầy Quảng Minh (sau Thầy du học ở Nhật rồi hoàn tục bên ấy) và sau nữa là cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Hội có xuất bản tạp chí Từ Quang.

Ngày 6-5-1951, tại chùa Từ Ðàm Huế, một Ðại Hội Phật Giáo đã được triệu tập có 51 đại biểu gồm quý vị Tăng GiàCư sĩ Bắc, Trung, Nam đã thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, trụ sở có lúc đặt tại chùa Ấn Quang, đến năm 1958 dời về chùa Xá Lợi. Tổng Hội có xuất bản tạp chí Phật Giáo Việt Nam.

Ngày 5-6-1951, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập, trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang, nơi đây cũng là Phật Học Ðường Ấn Quang, về sau có Phật Học Ðường Huệ Quang nằm trong khu vực Phú Lâm (đối diện Xa Cảng Miền Tây).

VI.- Phật Giáo Việt Nam cận và hiện đại.

Ngoài Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam ra, cũng còn nhiều tông phái khác như Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thuỷ, Tịnh Ðộ Tông, Tịnh Ðộ Cư Sĩ ... Nhưng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam là một tổ chức hoạt động hữu hiệu, mạnh nhất trong cả nước. Vào dịp Phật Ðản năm 1963, tại Ðài phát thanh Huế, đã xảy ra việc "xe tăng cán chết một số Phật tử", đó là sự kiện "kỳ thị và đàn áp Phật Giáo" Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập tại chùa Xá Lợi, để đòi hỏi chánh phủ Ngô Ðình Diệm thi hành chánh sách tự do tín ngưỡng, thi hành bình đẳng tôn giáo.

Ðể thúc đẩy cho cuộc tranh đấu được kết quả tốt đẹp, HT Thích Quảng Ðức tự thiêu ngày 11-6-63, nhiều cuộc biểu tình xảy ra cả miền Nam nhất là Sàigòn, nữa đêm 20-8-1963 chánh quyền bắt tất cả quý Tăng trong UBLPBVPG và phong tỏa nhiều chùa chiền trong cả nước, Liên Hiệp Quốc phải cử một phái đoàn sang Việt Nam, để điều tra về việc kỳ thị và đàn áp tôn giáo nầy. Ðến ngày 1-11-1963, Quân đội nổi lên lật đổ chánh phủ, quý vị lãnh đạo được đưa về Chùa.

Ngày 20-11-1963, có 11 Hội đoàn Phật Giáo đã tham dự Ðại Hội Phật Giáo tại Chùa Xá LợI, ký Hiến Chương thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Hiến Chương nầy tu chỉnh vào kỳ Ðại hội 14-12-65. Ðến năm 1967 lãnh đạo Giáo Hội bị phân hoá vì cuộc chiến tranh Ý thức hệ, phân thành Giáo Hội Ấn QuangViệt Nam Quốc Tự. Trong thời kỳ nầy nhiều chùa chiền và cơ sở vật chất đã được xây dựng như chùa Vĩnh Nghiêm đồ sộ, với những mái cong, đường nét biểu trưng cho kiến trúc Phật Giáo Việt Nam, Trung Tâm Văn Hóa Thích Quảng Ðức, nhiều trường Bồ Ðề và Viện Ðại Học Vạn Hạnh ngay tại Thủ đô Sàigòn, chăm lo đào tạo Tăng tài và truyền bá Văn Hoá Phật Giáo.

Sau khi Cộng sản chiếm miền Nam, GHPGVNTN không còn hoạt động được nữa. Ngày 4-11-1981, 160 đại biểu Họp ở Hà Nội để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thuộc Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam của Cộng sản. Sau khi HT Ðôn Hậu, chánh Thư ký Viện Tăng Thống, xử lý thường vụ lưỡng viện GHPGVNTN viên tịch tại chùa Linh Mụ ngày 23-4-1992, phong trào đãu tranh của Phật Giáo với Cộng sản bộc phát. Từ năm 1975, nhiều vị Tăng Việt Nam đã ra Hải ngoại, lánh nạn Cộng sản, để hoằng đương chánh pháp ở Hải ngoại và hỗ trợ cho Phật Giáo ở trong nước.

Ở hải ngoại, nhiều vị Tăng có khuynh hướng khác nhau, đã thành lập nhiều Giáo Hội khác nhau, chẳng hạn như Giáo Hội Tăng Già Việt Nam Trên Thế Giới, Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ, Giáo Hội Liên Tông Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, Úc, Âu Châu. . . Gần đây những nhà lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trước kia, đã có những buổi họp, ra Tuyên ngôn thống nhất một số quan điểm và gửi về Việt Nam một lá thư cho lãnh đạo Phật Giáo tại quê nhà, để tán dương công đức đào tạo Tăng tài, để ca ngợi sự gian lao trong đấu tranh cho Tự do tín ngưỡng, bảo vệ Nhân quyền.

Mặc dù có những khó khăn ở trong nước, ở Hải ngoại còn những bước ban đầu, nhưng tất cả đều cố gắng, quan tâm đến việc đào tạo Tăng tài, xây dựng chùa chiền. Chúng ta có được một niềm tin: Tiền đồ Phật Giáo Việt Nam sẽ xán lạn trên toàn Thế giới.

Phật Lịch 2539, Louisville 20-10-1995

Sách tham khảo:

Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Ðại Nam, Hoa Kỳ
Nam Thanh, Cuộc tranh đấu lịch sử của PGVN , LSNCPHH, Sàigòn, 1964.
Tuệ Sỹ, Việt Nam Phật Giáo, Ban Tu Thư Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Sàigòn, 1968.
Nhiều Tác giả, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, VTH UBKHXHVN, nxb KHXH, Việt Nam 1988.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14187)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15519)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13211)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19370)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24636)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15750)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37838)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13486)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13110)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17189)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13208)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17394)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21646)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13227)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14411)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12823)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13669)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28649)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23412)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34396)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28891)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32200)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11331)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12011)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26310)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17394)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14535)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34505)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13120)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12288)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13423)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40524)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26957)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14470)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13259)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13466)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12543)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13161)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12322)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11803)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12582)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17676)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12212)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12763)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18445)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14305)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13003)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11331)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12155)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13473)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10844)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11085)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10297)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28930)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25292)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26865)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25783)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18683)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23050)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34564)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant