Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáovận mệnh

26 Tháng Hai 201200:00(Xem: 13670)
Phật giáo và vận mệnh
PHẬT GIÁOVẬN MỆNH
Đại sư Tinh Vân
Phước Tâm dịch

daisutinhvan-contentTrong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết.

Trong lữ trình của sinh mệnh, có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của chúng ta, như sự kỳ vọng của phụ mẫu sư trưởng, hay thái độ cừu địch thân hữu. Việc vận dụng tiền tài vật chất, cố nhiên có thể chi phối sự phát triển tiền đồ- con đường phía trước của chúng ta. Một câu nói. Một ý nghĩ#. Tất cả đều có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của chúng ta. Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem những gì mình đang chịu đời này; muốn biết quả kiếp sau, hãy xem những việc làm của mình ở đời này”. Do vậy, có thể suy luận: Tất cả cảnh giới thuận nghịch mà đời này gặp phải, là do những tạo tác của hành vi quá khứ mà hình thành, đây chính là quả báo của đời này; nhưng mà, nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con người vẫn là chính mình.

Những nhân tố ảnh hưởng đến vận mệnh được quy kết như sau:

Thứ nhất, tập quán: Phật giáo cho rằng phiền não đã là thứ khó đoạn tuyệt, nhưng lại có một thứ càng khó khử trừ hơn đó là tập khí (1). Tập quán (thói quen) vốn là mô thức cố định trong đời sống của chúng ta, có tốt có xấu, nhưng mà sau khi trải qua một thời gian dài, thói quen trở thành tự nhiên, thì sẽ biến thành tập khí thâm căn cố đế, đời đời kiếp kiếp khó mà tiêu trừ. Vì vậy, đối với sự dưỡng thành thói quen, cần phải cẩn thận. Thói quen xấu gồm như hút thuốc, hít độc (tiêm chích ma túy), nát rượu, v.v… những thói quen không lành mạnh này có khả năng tàn phá, làm tổn hại đến thân thể, sức khỏe; hay như nói dối, lạm tình, kiên tham (bủn xỉn, tham lam), v.v…, cũng có khả năng làm bại hoại đến đạo đức của chính mình. Thói quen tốt gồm như chế độ làm việc và nghỉ ngơi bình thường, ăn uống, vận động, tinh thần lạc quan, v.v…, có thể kéo dài tuổi thọ; hay như cần cù, gọn gàng sạch sẽ, sốt sắng nhiệt tình, v.v…, có thể tự lợi lợi người. Phật giáo khởi xướng tín đồ nuôi dưỡng thói quen đọc tụng kinh (2), từ đó có thể nương tựa Phật pháp dẫn dắt qua khỏi bến mê; cũng như dưỡng thành thói quen niệm Phật (3), thì có thể nương Phật hiệu khơi gợi Phật tính trong tâm mà vãng sinh Tịnh độ, siêu việt sinh tử. Tóm lại, một người mặc dù có điều kiện ưu việt được trời ưu ái, mà thói quen không tốt, cũng khó có vận mệnh đại phú đại quý. Thói quen tốt cũng là một trợ duyên, có thể giúp chúng ta biến nguy thành an, thuận buồn xuôi gió.

Thứ hai, mê tín: Nhiều người thích coi số đoán mệnh, mục đích không ngoài hy vọng mọi việc của mình được như ý muốn, gặp hung hóa kiết, gặp dữ hóa lành. Có người khăng khăng giữ quan niệm chọn bạn trăm năm phải phối hợp Bát tự (4), có người thì chú trọng việc cất nhà sản xuất phải xem phong thủy, lại có người thậm chí mọi việc cầu thần coi bói, không cần phán đoán, nhận định theo lý tính. Hành vi mê tính, bắt nguồn từ sự thiếu vắng niềm tin, có lúc ngược lại, do vậy mà đánh mất đi những cơ hội tốt hoặc bóp méo sự thật, vô tình chôn vùi hạnh phúc của một đời. Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt đẹp, giờ giờ đều là những giờ tốt đẹp, chỉ cần phù hợp chính lý nhân quả, thì không có gì đáng cữ kiêng.

Thứ ba, tình ái: Gọi là “Ái bất trọng bất sinh Sa bà” (tình yêu vắng mặt chấp thủ, tất sẽ không sinh ở chốn Sa-bà), con người tất nhiên thì là có tình cảm, nhưng có một số người cứ vì quá chấp vào tình yêu, để rồi đánh mất lý trí, thậm chí có người vì tình ái mà tự tạo ra những hố sâu bi tình không thể nào bù đắp lại. Do vì, tình yêu không được xử lý một cách thỏa đáng, thường hay nảy sinh những phiền muộn khổ đau, cho nên Phật giáo khuyên dạy con người nên lấy trí hóa giải tình yêu, lấy từ làm nên tình yêu, có thể thăng hoa tình yêu thành từ bi, như thế mới có thể không tự làm khổ mình, cũng không làm phiền lòng người khác.

Thứ tư, quyền lực: Sự chi phối của quyền lực là do quá cưng chiều ngã chấp (5) và ngã mạn (6), khiến cho con người dưỡng thành ý thức giai cấp tôn ti, quý hèn. Có người tự ti quá độ, cam tâm chịu khuất phục quyền lực, không cầu tự chủ, một đời thấp hèn, ti tiện; có người thì danh lợi lòng dạ hiểm độc, cầu mong quyền lực, không từ một thủ đoạn nào, đánh mất lý tính. Mà Phật giáo thì cho rằng chúng sinh bình đẳng, mọi người đều có Phật tính, bần phú quý tiện thật sự là ở chỗ hữu- vô của đạo đức; chúng ta nên có sự nhận biếtđảm đương trách nhiệm “Ta là Phật” (7), tin tưởng sự kiến lập nắm bắt vận mệnh ngay chính bản thân mình.

Thứ năm, nghiệp lực: Phật giáo cho rằng nghiệp lực (8) là sức mạnh lớn nhất có khả năng khống chế vận mệnh. Nghiệp lực là các hành động thân, khẩu và ý của mỗi một người, nó có sức ảnh hưởng đến đời sống vị lai. Nhiều người than thở thời vận của mình không tốt, hoặc oán trách việc người không có lợi cho bản thân, không nghĩ rằng phàm bất cứ việc gì cũng đều do nghiệp lực tạo thành, thành công cố nhiên là ở mình, nhưng việc phối hợp hoàn cảnh bên ngoài, càng không thể xem nhẹ; những thất bại, sai trái tuy đã qua, nhưng cũng nên nhìn lại để phản quan tự tỉnh: Phước ít đức bạc, sao có thể đạt được việc tốt được? Phật giáo chủ trương “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, lúc bình thường nếu có thể quảng kết thiện duyên, sám hối nghiệp chướng, thì chắc chắn có thể hóa giải ác duyên túc thế, khai sáng tiền đồ tốt đẹp trong tương lai.

Tập quán, mê tín, tình ái, quyền lựcnghiệp lực, làm việc thiện làm việc ác đều quyết địnhý niệm của chúng ta, sửa đổi vận mệnh cũng cần bắt đầu tịnh hóa từ tâm niệm của chúng ta. Nay dùng các phương pháp cụ thể thay đổi vận mệnh được quy nạp như sau:

Thứ nhất, thay đổi quan niệm: Quan niệm ảnh hưởng đến phán đoán giá trị của một con người, quyết định thú hướng thiện ác của hành vi. Phật giáo chú trọng sự dưỡng thành chính tri chính kiến. Gọi là “Chính tri chính kiến” chính là những kiến giảiquan niệm chính xác. Phật giáo cho rằng chính kiến cơ bản của đời người (nhân sinh) có bốn: Chính kiến có nhân có quả, chính kiến có nghiệp có báo, chính kiến có thánh có phàm, chính kiến có thiện có ác. Đã có nhân sinh quan chính xác, có niềm tin sâu sắc vào nhân quả, rõ biết duyên khởi, thì tự nhiên sẽ không khởi ác tạo nghiệp, oán trời trách người.

Thứ hai, thay đổi hành vi: Tục ngữ nói: “Muốn thu hoạch như thế nào, thì trước gieo trồng xuống những hạt giống như thế đó”. Nghiệp nhân mà từ hành vi của mỗi một người tạo tác, một khi nhân duyên tế hội gặp gỡ thì tự nhiên sẽ sản sinh quả báo, cho nên chúng ta hy vọng tiền đồ tương lai tốt đẹp, cuộc sống phú lạc (giàu sangvui vẻ), thì cần phải bắt đầu từ hành vi của chính mình, để mong chuyển họa thành phước, bởi vì tất cả hạnh và bất hạnh, đều có thể thao túng, khống chế trong tầm tay của mình.

Thứ ba, quảng kết thiện duyên: Vũ trụ vạn pháp, từ nhân đến quả, trung gian còn phải cần có lực lượng hữu duyên, thì quả mới có thể sinh thành. Một đời của con người, có người thì thông minh trí tuệ, năng lực rất tốt, nhưng trái lại người đó không nhất định sẽ được gặt hái nhiều thành quả mỹ mãn; có người tư chất bình thường, không có gì nổi bật, nhưng trái lại phàm gặp việc gì cũng suông sẽ thuận lợi, đâu đâu cũng được sự tương trợ của người hữu duyên. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng đến “Quảng kết thiện duyên”. Kết duyên là một việc làm tốt đẹp nhất trên thế gian này, đặc biệt sinh mệnh không chỉ một đời, người có khả năng lấy Phật pháp kết duyên, thì đời đời kiếp kiếp đều có thể đi theo các bậc thiện trí thức học tập, tự nhiên vận mệnh thông đạt, ứng nhân xử thế vô ngại.

Thứ tư, trì giới thủ pháp: Giới (9) là căn bản của tất cả thiện pháp, giới có thể phòng phi chỉ ác, gọi là “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu”, hành thiện tất được thiện báo, hành ác tất gặp ác quả, người trì giới thì tuân theo giới luật (thủ pháp), trong hành vi sẽ không phạm vào nghiệp nhân bất hảo, tự nhiên sẽ không gây nên quả báo xấu. Vì vậy, kinh điển tỉ dụ: “Giới như lương sư, giới như quỹ đạo, giới như thành lũy, giới như túi nước, giới như ngọn đèn sáng, giới như bảo kiếm, giới như chuỗi ngọc, giới như thuyền bè”. Trì giới thủ pháp có thể ngăn chặn ác duyên, tự nhiên sẽ có tiền đồ sáng lạn, nhân sinh mỹ mãn.

Phật giáo đối với vận mệnh của một đời con người có cách nhìn tích cực lạc quan, chủ trương các pháp vô thường, duyên khởi tính không (10), vận mệnh xấu có thể dựa vào thiện duyên bồi dưỡng tiến hành thay đổi, dù cho nghiệp chướng nặng nề, cũng có thể giảm nhẹ, gọi là trọng nghiệp khinh báo (11). Con người không nên buồn rầu với số mệnh không tốt của mình, mà cần cố gắng vượt lên, thay đổi vận rủi ấy; cho nên con người không thể phó thác cho trời đất hay mặc cho số mệnh, ủ rũ chán chường, để năm tháng luống qua một cách vô ích, cần có quyết đoán, dứt khoát thay đổi triệt để, tạo dựng nên vận mệnh của chính mình. Vì vậy, cho dù sống trong giàu sang thuận đạt, hoặc là nghèo nàn khổ ách, đều nên chính quán duyên khởi, hiểu rõ vận mệnh, thay đổi vận mệnh, từ đó lập nên vận mệnh mới, tốt đẹp hơn.

 

Trích dịch từ sách “Phật giáo & Thế tục”(佛教世俗) in trong bộ sách “Phật học giáo khoa thư” (佛學教科書) của Đại sư Tinh Vân (星雲), do NXB. Từ Thư Thượng Hải xuất bản, năm 2008, tr.7-10...

 

CHÚ THÍCH:

(1) Tập khí chỉ tư tưởng hoặc hành vi thường sinh khởi của chúng ta, huân tập lâu ngày thành chủng tử, tồn tại trong thức A-lại-da, tùy sinh tử luân hồi mà trình hiện trong thể sinh mệnh mới như hình theo bóng.

 (2) Kinh là chỉ cho giáo pháp mà Phật-đà trình bày, kinh nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển, tức chỗ đó có Phật”. Vì vậy bái kinh, tụng kinh, chép kinh, đọc kinh đều có công đức mở mang trí tuệ. Phật giáo coi trọng văn- tư- tu, nghĩa lý kinh Phật thâm áo, cần nghe nhiều huân tập, tư duy pháp nghĩa, đã có sở đắc, càng nên y lý thực hành trong đời sống, mới có thể được nhiều lợi ích chân chính

 (3) Thông thường mà nói, việc quyết định thú hướng vãng sinh có ba loại: Một, tùy trọng nghiệp đã tạo mà thọ báo; hai, tùy tập khí bình thường thọ báo; ba, tùy nhất niệm lúc lâm chung thọ báo. Kinh A-di-đà nói: “Nếu có người nghe nói đến Phật A-di-đà, chấp trì danh hiệu, ví như một ngày hoặc đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người đó lúc sắp lâm chung, Phật A-di-đà cùng chư thánh chúng hiện ngay trước mặt người ấy người lúc lâm chung tâm không điên đảo, tức được vãng sinh quốc độ Cực lạc Phật A-di-đà”. Người niệm Phật thuần thục, tùy thời có thể lấy Phật niệm thay cho tạp niệm, bất luận là tùy tập hay tùy niệm, đều có thể quyết định vãng sinh Tịnh độ

(4) Bát tự = Tám chữ (giờ ngày tháng năm sinh viết theo Thiên can và Địa chi) là cách xem số mệnh của Trung Quốc. Người mê tín cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh ra đều bị Thiên can Địa chi chi phối; mỗi hạng có hai chữ thay thế, bốn hạng thì có tám chữ, căn cứ tám chữ này, tức có thể suy đoán vận mệnh/sinh mệnh của một con người. Tục xưa lúc đính hôn, trước phải trao đổi Thiếp tám chữ, cũng gọi “Canh thiếp”, hoặc gọi đơn giản là “Bát tự”.

 (5) Chính là chấp trước tự ngã tồn tại chân thật, rồi sinh khởi tâm luyến ái, tham thủ. Thể nguyên của chúng sinhgiả hợp của ngũ ấm. Nếu vọng chấp có sự tồn tại của cái tôi thực thể chi phối ảnh hưởng, mà nảy sinh phân biệt vọng tưởng như “ngã” (tôi) và “ngã sở” (những cái của tôi), tức gọi là ngã chấp. Thành duy thức luận thuật ký ghi, phẩm loại phiền não chướng có rất nhiều, lấy ngã chấp làm gốc, sinh khởi các phiền não; nếu không chấp vào cái tôi, thì phiền não tự dưng biến mất.

 (6) Chính là tâm kiêu mạn, tự cho mình tài giỏi hơn người khác, rồi sinh khởi tâm lý khinh thường người khác. 

 (7) Lời này có nguồn gốc từ công án Thiền tông. Thiền sư Linh Huấn hỏi Thiền sư Quy Tông: “Cái gì là Phật?” Quy Tông: “Nói với ông, ông cũng không tin”. “Ông chính là Phật”. Ý là bất kỳ người nào cũng đều có Phật tính, chỉ cần khẳng khái đảm nhận, thì đều có thể thành Phật làm Tổ. Xem Tinh Vân Thiền ngữ tứ: Bạn chính là Phật. 

 (8) Các hoạt động thân tâm như hành vi, ý chí, gọi là “Nghiệp”. Sức ảnh hưởng tiếp nối những việc làm sau đó của chúng ta gọi là “Nghiệp lực”. Phật giáo lấy tư tưởng của nghiệp dùng để biểu đạt thiện ác của hành vi và mối quan hệ qua lại của khổ lạc nhân quả báo ứng, cho đến các nguyên lý luân hồi như kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Thông thường mà nói, nghiệp được chia làm ba nghiệp là thân, ngữ và ý, nếu tạo nghiệp thiện ác, thì sau đó chiêu cảm quả báo (dị thục) khổ lạc tương ứng. Do có nghiệp nhân, nên chiêu cảm nghiệp quả; nghiệp vô ký phi thiện phi ác thì không có năng lực chiêu quả. Nghiệp có nhiều chủng loại, y một đời chúng sinh thọ báo có thể phân làm Dẫn nghiệp (lại gọi là tổng báo, chi phối nghiệp lực của chúng ta sinh ở nhân giới, súc sinh giới hoặc các giới khác) và Mãn nghiệp (còn gọi là biệt báo, nghiệp lực viên mãn của các căn chúng sinh, hình lượng, sắc lực, v.v…) Theo sự dị đồng thọ báo giữa chúng sinh với chúng sinh, có thể chia ra cộng nghiệp (khiến chúng sinh cảm được nghiệp quả báo chung, như sơn hà đại địa, bối cảnh gia đình,…tức sự tương đồng của hoàn cảnh bên ngoài) và bất cộng nghiệp (nghiệp báo bất đồng của chúng sinh ở trong hoàn cảnh giống nhau, như cùng sinh ra từ trong một gia đình, nhưng họa phước không giống nhau). Tùy sự nhanh chậm của thời gian thọ báo, nghiệp còn phân làm Thuận hiện nghiệp (tức hiện tại làm việc thì ngay hiện tại phải nhận quả báo), Thuận sinh nghiệp (tức đời này làm việc, đời sau nhận quả báo), và Thuận hậu nghiệp (đến sau đời thứ ba mới bắt đầu thọ báo)… 

 (9) Giới pháp Phật giáo bao hàm tất cả hành vi quy phạm thế gian, có các loại sau: Thông giới (các việc ác chớ làm, các việc thiện cần thực hành) và Biệt giới (giới luật được phân biệt chế định trong Tăng đoàn thất chúng, còn có thể chia làm tại gia giới và xuất gia giới); Chỉ trì giới (ngăn cấm điều ác) và Tác trì giới (hành thiện); Tính giới (các giới đối với những hành vi tội ác mà lập nên, như không giết mổ, không trộm cắp…) và Già giới (dù hành vi phi thiện phi ác, nhưng trái lại dễ dàng nảy sinh cơ hiềm/hiềm khích hoặc gợi ra giới pháp hành vi tội ác); Thanh văn giới (lấy tự luật- tự ràng buộc hạn chế làm giới pháp chính, như “Ngũ phần luật”) và Bồ-tát giới (lấy lợi tha làm giới pháp chính, nội dung hàm nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới); Giới tại gia (như ngũ giới, bát quan trai giới…) và xuất gia giới (như Tỳ-kheo giới, Sa-di giới…). 

 (10) Phật giáo chủ trương các pháp do nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên mà diệt, vạn sự vạn vật đều là duyên sinh mà tụ, duyên diệt thì tan, vì vậy không có tự tính, bản chất là không, cho nên nói duyên khởi tính không.

 (11) Phật giáo cho rằng tội lỗi hay nghiệp chướng có sâu nặng, cũng có thể thông qua sám hối sửa đổi, nuôi trồng phước đức để giảm nhẹ. Tỉ như một nắm muối, mặn chát không thể nào nuốt được, nếu như dùng nước pha loãng đi, thì vị mặn chát ấy tự nhiên đổi sẽ thành nhạt loãng.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9299)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11449)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7542)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12272)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143571)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6952)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11879)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8614)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19934)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9276)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10820)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13560)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11430)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9354)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14454)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7268)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32471)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13127)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20987)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39117)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7124)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8962)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6748)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9744)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9455)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8031)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11759)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16144)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9597)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12213)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8779)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15547)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7985)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17798)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8633)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8279)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10505)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15827)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17498)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7905)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12977)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8011)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8582)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9745)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10325)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23215)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19326)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10023)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8223)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24178)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8825)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8438)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7977)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17739)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9485)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8186)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24332)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24669)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8394)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8224)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant