Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò

05 Tháng Tư 201200:00(Xem: 14177)
Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò

Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò
Thích Phước Đạt


thayvatroKhông phải ngẫu nhiên giáo lý Phật giáođạo lý dân tộc ta đều xác lập mối liên hệ thầy trò thật khắng khít, không thể tách rời trong sự hình thành nhân cách con người. Mỗi cá thể con người hiện hữu ở đời đều do cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng, nhưng sự trưởng thành, lớn khôn, cất bước chân hội nhập với đời đều nhờ công ơn giáo dưỡng của thầy cô. Thế nên, bổn phận của người học trò luôn ý thức tôn kính thờ thầy mà giới luật nhà Phật đề cao cái gọi là “Sự Sư đệ nhị”, còn đạo lý dân tộc thường dạy “Tôn Sư trọng đạo” mà xưa nay người dân Việt Nam thực hiện. Để thiết lập mối quan hệ hai chiều giữa thầy và trò ngày càng bền chặt, thăng hoa trong sự phát triển các mối quan hệ tình người trong cuộc sống, Đức Phật đã giảng dạy mối quan hệ này qua bài kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Trường bộ kinh IV).

Về quan hệ giữa thầy và trò

Bản kinh nói trên đề cập 5 điểm chính mà người thầy phải có trách nhiệm và bổn phận truyền trao cho người học trò:

1- Rèn luyện cho học trò theo những đức tính mà mình có.

2- Dạy cho học trò giữ gìn và nhớ kỹ điều cần thiết.

3- Dạy cho học trò nắm vững nghề nghiệp đến mức thuần thục.

4- Khen học trò đối với bạn bè quen biết.

5- Đảm bảo nghề nghiệp cho học trò trên mọi mặt.

Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh đối với mọi người. Do đó, người thầy trở thành bậc mô phạm giữa đời, là tấm gương phản ánh để người học dõi theo thực tập. Hay nói một cách cụ thể, vị thầy là người thực thi đời sống hướng nội “tri hành hợp nhất”. Cái biết của thầy là cái biết đúng sự thật chân lý, trên hết là thể nhập một đời sống tâm linh hướng nguyện vào các đối tượng mà mình giảng dạy.

Tại đây, người thầy không chỉ có nhiệm vụ trao truyền kiến thức đến người học trò mà còn hướng họ thể hiện đời sống thực nghiệm qua thân hành, khẩu hành, ý hành. Mục đích đầu tiên mà người thầy hướng đến là hoàn thiện nhân cách tốt đẹp cho người học, từ đó họ mới sẵn sàng tiếp nhận các kiến thức mà người thầy truyền trao. Đây chính là bước đi đầu tiên mà người học trò cần rèn luyện để trưởng thành với những đức tính tốt đẹp mà người thầy thể hiện trong quá trình giảng dạy. Về mặt này, Đức Phật là vị thầy mô phạm ở đời, có tác động lớn đối với bao thế hệ đi qua.

Cho nên, trong quá trình giáo hóa chúng sinh, Đức Phật là người hết lòng dạy cho các học trò của mình những điều cần nhớ kỹ để thực nghiệm, để thăng tiến đạo hạnh. Những điều cần nhớ, cần giữ gìn chính là con đường thực thi nếp sống có giới như kiện toàn về đạo đức, an trú trong định như là sự ổn định tâm thức, không bị dao động bởi sự biến động của đời sống thực tiễn, từ đó thăng tiến về trí tuệ, có đóng góp thiết thực cho đời.

Đây chính là trách nhiệm lớn lao mà người thầy phải truyền trao cho người học. Suy cho cùng, người thầy là người giới thiệu người học cất bước chân thể nhập vào đời. Do đó, người thầy phải nhiệt tâm trao truyền kiến thức chuyên môn để người học thiện xảo trong nghề nghiệp, tháo vát trong hành xử, tạo ra các sản phẩm tốt mang tính hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất con người mong muốn. Sau đó là sự góp phần đem lại hiệu năng của một đời sống hạnh phúc, an lạc cho từng cá thể

Sự thành công của người học trò sẽ là niềm khích lệ, động viên cho chính họ thăng tiến và đi xa hơn nữa. Trong trường hợp đó, người thầy phải khéo léo khích lệ người học trò trước mọi người, trước các hội chúng, và bạn bè thân hữu. Điểm này nếu được vị thầy tán dương đúng lúc, đúng thời sẽ tạo ra hiệu quả lớn trong việc giáo dụcđào tạo. Nguyên lý giáo dục khích lệ này không chỉ được Đức Phật thực thi mà các nhà giáo dục hiện đại cũng áp dụng và đưa đến những thành tựu giáo dục như chúng ta đã biết.

Không dừng tại đó, người thầy còn có nhiệm vụ hướng cho người học sau khi thành thạo chuyên môn, phải có ý thức thăng tiến nghề nghiệp để có vị trí xứng đáng trong xã hội. Tại đây, người học trò trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào đó mà bản thân họ được đào tạo. Tính chuyên môn cao sẽ tạo ra tính bền vững trong nghề nghiệp. Từ đây, nó sẽ tác động đến mọi mặt đời sống của xã hội trong sự phát triển chung của từng cá thể và cả cộng đồng.

Với 5 điểm chính mà người thầy thể hiện trong mối quan hệ giữa thầy và trò như thế sẽ dẫn đến người học trò có 5 bổn phận, trách nhiệm cần phải thực thi với người thầy của mình mà ta sẽ đề cập dưới đây.

Về quan hệ giữa trò đối với thầy

Bản kinh trên cũng đề cập đến 5 điểm chính như sau:

1- Chào thầy khi thầy đến.

2- Hầu hạ, săn sóc thầy.

3- Hăng hái học tập thầy.

4- Tự mình giúp đỡ thầy.

5- Tự trau dồi nghề nghiệp mà thầy trao truyền cho mình.

Thực chất, 5 điểm này là nói đến tinh thần “Sự Sư đệ nhị”, hay “Tôn Sư trọng đạo” của người học đối với vị thầy mà thôi. Sự thể hiện chào thầy khi thầy xuất hiện chính là hình ảnh người học trò biết tôn kính người thầy mọi lúc mọi nơi. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” khiến người học lúc nào cũng khắc sâu vào tâm trí của mình để tri ânbáo ân. Khi người học biết tôn kính người thầy thì người đó mới sẵn sàng đón nhận các kiến thức người thầy truyền trao một cách nhiệt tâm trong ý thức cầu học. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nguyên lý giảng dạy, giáo dục luôn đòi hỏi mối quan hệ này phải được thể hiện hai chiều. Thầy phải tạo dấu ấn lớn trong tâm thức người học trò trên mọi phương diện và ngược lại người trò phải hết sức tôn kính người thầy thì hiệu năng giáo dục mới có hiệu quả cao.

Từ đây, việc săn sóc thầy không còn được xem là bổn phận mà được thể hiện qua cái tình người học trò dành cho người thầy. Việc hầu hạ, săn sóc thầy trở thành một công việc tự nguyện, chẳng có gì để nói. Sự thân cận, hết lòng hầu hạ thầy không chỉ giúp người đó học được kiến thức mà còn học được cách tiếp nhận từ một đời sống thực nghiệm mà người thầy đã thể hiện trong đời sống thường nhật.

Rõ ràng, có rất nhiều điều người học trò phải biết lắng nghe, dõi mắt nhìn vào tấm gương mà người thầy dày công tạo dựng. Một người học trò khôn ngoan và trung thành, hiếu kính với người thầy không chỉ sẵn lòng đón nhận các kiến thức trên bục giảng mà phải học và hành những gì thầy đã giảng dạy ở mọi lúc mọi nơi. Sự nhiệt tâm, tinh cần của người học trò trong việc học tập sẽ tạo ra nguồn cảm hứng sáng tạo cho người thầy truyền đạt những kiến thức mới không biết mệt mỏi. Nhờ vậy, người học trò có khả năng thăng tiến trên mọi lĩnh vực.

Có thể nói, đây chính là điều kiện để người học trò tự trau dồi kiến thức mà người thầy đã giảng dạy. Nghề dạy nghề là sự thật xưa nay khi mà mỗi người hội nhập vào đời qua khả năng chuyên môn cũng như sự thích ứng với môi trường làm việc, cộng với sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong nghề nghiệp sẽ tạo bước nhảy vọt trong sự nghiệp mà mình đeo đuổi trọn đời. Đây là sự đền ơn đáp nghĩa cao nhất mà người thầy trông đợi ở người học trò.

Tóm lại, trong các mối quan hệ giữa người với người thì mối quan hệ giữa thầy và trò, trò đối với thầy là mối quan hệ tạo khả năng thiết lập rộng rãi các mối quan hệ khác. Có thể nói, từ mối quan hệ này mà thiết lập các mối quan hệ khác đa phương, đa chiều trong xã hội. Điều đó có nghĩa là khi mối quan hệ này được thiết lậpxây dựng trên nền tảng giáo dục tự thân và giáo dục cộng đồng với mục tiêu giải thoát khổ đau, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống hạnh phúcthành tựu Niết-bàn an lạc ngay trong cõi đời này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38467)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14643)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14624)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14058)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14945)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16555)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29879)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16217)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15531)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14884)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14874)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17885)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15573)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38668)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26725)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39659)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50758)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38743)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35044)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18305)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16468)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42401)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39242)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35612)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17463)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46518)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17152)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28493)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18996)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17590)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17112)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17550)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16532)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16884)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30840)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16940)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18503)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18456)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17383)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18167)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17076)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23494)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16990)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17461)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17669)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17057)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15738)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18033)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17412)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17202)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29520)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27725)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18168)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16111)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15366)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14836)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55117)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14203)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13250)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant