Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Mở đầu

11 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11023)
1. Mở đầu


MỞ ĐẦU

Chúng ta có thể nói tất cả những lời dạy của đức Phật đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến vấn đề đạo đứcchúng ta cần phải định nghĩa đạo đức Phật giáo như thế nào trước hết cho phù hợp với dụng ý thuyết pháp độ sanh của Ngài, sau đó ứng dụng nền đạo đức ấy vào thế giới loài người của chúng ta, đặc biệtcon người hiện đại của chúng ta.

Khi Ngài tuyên bố: "Này các tỷ-kheo, xưa cũng như nay Ta chỉ nói nên sự khổ và diệt khổ" (Trung Bộ I, 140), lời tuyên bố xác nhận Ngài chỉ dạy cho loài người biết đến khổ và sự diệt khổ trong suốt 45 năm qua thuyết pháp của Ngài. Chúng ta được biết trong kinh Chuyển Pháp Luân, bản kinh đầu tiên của Ngài thuyết giảng cho 5 vị trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Ngài đã tuyên bố: "Ðây là khổ, đây là khổ cần phải được biết, đây là khổ đã được biết. Ðây là khổ tập, đây là khổ tập cần được đoạn diệt, đây là khổ tập đã được đoạn diệt. Đây là khổ diệt, đây là khổ diệt cần phải chứng ngộ, đây là khổ diệt đã được chứng ngộ. Đây là con đường đưa đến khổ diệt, đây là con đường khổ diệt cần phải hành trì , đây là con đường khổ diệt đã được hành trì. " Không những vậy ngài còn khuyên những đệ tử xuất gia của Ngài: "Này các Tỷ-kheo hãy du hành, vì hạnh phúc của quần sanh, vì an lạc cho quần sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư thiên và loài người". (Tương Ưng I, 128).

Những lời tuyên bố trên của đức Phật nêu rõ hoài bão tha thiết của Ngài là cứu khổ độ sanh, diệt khổ ưu, đem lại hỷ lạc cho tất cả loài hữu tình. Và như vậy chúng ta có thể định nghĩa, đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúcan lạc cho mọi loài chúng sinh, đặc biệtloài người chúng ta. Cần đặc biệt nhấn mạnh đây là một nếp sống, không phải là những lời dạy luân lý hạnh kiểm cần phải theo một cách máy móc thụ động. Và nếp sống ấy cần phải đem ra hành trì, thực hiện, không phải để lễ bái cầu xin. Có thực hiện người hành trì mới hưởng được hạnh phúc an lạc, thiết thực hiện tại và ngay trong đời này (sandithiko akàliko), có thể thấy biết được (ehipassiko), không phải là một cảnh giới thiên đường xa xăm tưởng tượng .

Một số lời dạy sau đây của đức Phật càng chứng minh rõ những lời dạy của Ngài là hướng tới diệt khổ và đem vui cho chúng sinh: "Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong hiện tại sống đau khổ, với tổn não với ưu não, với nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung được chờ đợi là ác thú . Thế nào là 5? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có lòng tin, không có lòng xấu hổ, không có lòng sợ hãi, biếng nhác và ác tuệ. Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não và sau khi mạng chung, được chờ đợi là cõi lành Thế nào là 5? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ... " (Tăng Chi II, 11).

Một lời dạy tiếp, càng nhấn mạnh thêm: "Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và đem lại hạnh phúc cho người . Thế nào là 5? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ giới hạnh và khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh. Tự mình đầy đủ thiền định và khuyến khích người khác đầy đủ thiền định. Tự mình đầy đủ trí tuệ và khuyến khích người khác đầy đủ trí tuệ. Tự mình đầy đủ giải thoát và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát. Tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Đầy đủ 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và đem lại hạnh phúc cho người". (Tăng Chi II, 20).

Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng, xác định con người có khả năng đoạn trừ mọi khổ não, chấm dứt sanh tử luân hồn. Lời của Ngài là cả một hình ảnh linh động của một người dựa trên sức mạnh con người, tự mình đi tìm đạo, tự mình tu khổ hạnh, tự mình hành thiền cho đến khi chứng quả, không nhờ một ai, không ỷ lại một thần lực nào. Khi đến tìm đạo với Ngài Alarakalama, vị đã chứng thiền vô sở hữu xứ, Ngài suy nghĩ: "Không phải chỉ Alarakalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin, Không phải chỉ Alarakalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ Alarakalama có niệm, ta cũng có niệm. Không phải chỉ Alarakalama có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ Alarakalama có tuệ, Ta cũng có tuệ". Với những suy nghĩ như vậy, và với khả năng tự lực, tự cường, Ngài kiên trì tu tập và chứng được quả Vô sở hữu xứ như Alarakalama đã chứng. Khi Ngài tự chứng niệm trên bản thân rằng khổ hạnh không đưa đến giác ngộ, Ngài liền rời bỏ khổ hạnh, hành trì thiền định, chứng được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, chứng được Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh, giải thoát khỏi các lậu hoặc, thành bậc Chánh đẳng, Chánh giác.

Như vậy đời Ngài từ khi tầm đạo đến khi giác ngộ, chứng minh một cách cụ thể rằng, với thân con người với ý trí nỗ lực con người, không nhờ vả ỷ lại một ai, Ngài đã được cứu cánh phạm hạnh tối thượng. Ngài chứng minh rằng: không quá đau khổ trong cảnh giới địa ngục, không quá sung sướng trong cảnh giới chư Thiên, chỉ với thân con người, tuệ tri được đau khổ để vượt qua đau khổ, tuệ tri được lạc để giải thoát khỏi thiên lạc, đạt được giải thoát lạc để thành bậc Chánh giác.

Như vậy Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đề cao vị trí con ngườichứng minh rằng con người có khả năng đạt đến giải thoát tối thượng, nếu con người có đủ ý trí và nỗ lực của con người, nếu con người tăng trưởng được niệm lực, định lực và thiền lựccủa con người, nếu con người phát huy được tuệ lực giải thoát lực của con người.

Bước thêm bước nữa, đạo đức Phật giáo là một nếp sống thanh tịnh, trong sạchlành mạnh, vì chỉ có một đời sống thanh tịnh mới bảo đảm được đời sống hạnh phúc. Trong kinh Ví dụ Tấm vải (Trung Bộ I, số 7), đức Phật xác nhận một tấm vải cấu uế đem nhuộm sẽ đươc một màu nhuộm không tốt đẹp. Cũng vậy cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. Trái lại, một tấm vải thanh tịnh trong sạch đem nhuộm sẽ được một màu nhuộm tốt đẹp. Cũng vậy cõi thiên chờ đợi một tâm không cấu uế. Như vậy, hạnh phúc chỉ đến với một tâm trong sạch, không đến với một tâm cấu uế.

Rồi Đức Phật kể 16 cấu uế tâm, trong ấy tham sân si là chính, cần phải tẩy sạch và đoạn trừ, nhờ lòng tịnh tín bất động đối với ba ngôi báu, nhờ chứng được nghĩa tín thọ và pháp tín thọ. "Từ nơi đây, hân hoan liên hệ đến pháp sanh. Từ hân hoan, hỷ khởi lên. Từ hỷ, thân được khinh an. Thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được thiền định" (Trung Bộ I, 37A-37B). Muốn chứng được thiền định, phải loại trừ năm triền cái được xem nhưcấu uế của tâm thay thế bằng năm thiền chi tâm tứ hỷ lạcnhất tâm. Muốn chứng quả A-la-Hán, phải đoạn trừ ba lậu hoặc: Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu; phải tẩy sạch mười kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cửvô minh. Cũng phải đoạn trừ 7 tùy miên: tham tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên; và các triền cái, kiết sử, lậu hoặc, tùy miên được xem như cấu uế của tâm. Và như vậy, một tâm trong sạch chờ đợi là hạnh phúc an lạc, một tâm cấu uế chờ đợi là đau khổ, sầu muộn. Nói đến cấu uế tức là nói đến bất thiện, nói đến trong sạch tức là nói đến thiện lành. Như vậy đạo đức Phật giáo cũng là một nếp sống từ bỏ bất thiện, thực hiện điều lành, như biết bao lời dạy của đức Phật về vấn đề này. Chúng ta đều nhớ câu:

"Không làm mọi điều ác, 
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy. 
(Pháp Cú 183)

Số phận chờ đợi kẻ ác và bậc thiện được phân biệt rõ ràng:

"Một số sinh bào thai
Kẻ ác sinh địa ngục;
Người thiện lên cõi trời
Vô lậu chứng Niết-bàn. 
(Pháp cú 126)

Hay câu:

"Ác hạnh không nên làm, 
Làm xong chịu khổ lụy;
Thiện hạnh ắt nên làm, 
Làm xong không ăn năn". 
(Pháp cú 319)

Sự sai khác giữa người ác và bậc lành cũng được phân biệt rõ ràng:

"Người lành dù ở xa, 
Sáng tỏ như núi tuyết;
Kẻ ác dù ở đây, 
Cũng không hề được thấy, 
Như tên bắn đêm đen. 
(Pháp cú 309)

Khi được du sĩ Vacchagotta yêu cầu giảng vắn tắt các pháp thiện và các pháp bất thiện, thế tôn phân tích rõ ràng như sau: "Tham là bất thiện, sân là bất thiện, si là bất thiện; vô tham là thiện; vô sân là thiên, vô si là thiện. Như vậy ba pháp là bất thiện, ba pháp là thiện. Sát sanhbất thiện, từ bỏ sát sanh là thiện. Lấy của không cho là bất thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện. Tà hạnh trong các dục là bất thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện. Nói láo là bất thiện, từ bỏ nói láo là thiện. Nói hai lưỡi là bất thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện. Nói ác khẩubất thiện, từ bỏ nói ác khẩu là thiện. Nói lời phù phiếmbất thiện, từ bỏ nói lời phù phiếm là thiện. Xan thambất thiện, từ bỏ xan tham là thiện. Sân là bất thiện, từ bỏ sân là thiện. Tà kiếnbất thiện, từ bỏ tà kiến là thiện. Như vậy này Vacha, mười pháp là bất thiện, mười pháp là thiện". (Trung Bộ II, 135, bộ mới).

Trong kinh Song Tầm, Trung Bộ I, số 19, đức Phật phân chia các Tầm ra hai loại: 

- Dục tầm, sân tầm, hại tầm thuộc bất thiện tầm, vì các tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn.

- Ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm thuộc thiện tầm, vì các tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, hướng đến Niết-bàn.

Vì sao có sự phân biệt này? Đức Phật nêu rõ: "Ta thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các pháp thiện" (Trung Bộ I, 116). Ở đây chúng ta hiểu vì sao Đức Phật khuyên chúng ta 

"Chớ thân với bạn ác, 
Chớ thân kẻ tiểu nhân
Hãy thân người bạn lành, 
Hãy thân bậc thiện nhân
(Pháp cú 78)

Hay câu:

"Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Sẽ chói sáng đời này, 
Như chăng thoát mây che"
(Pháp cú 73)

Đức Phật dùng một hình ảnh tuyệt đẹp để diễn tả sự sai khác giữa pháp của bậc thiện và pháp của kẻ ác: "Thật là xa, thật xa, khoảng cách giữa mặt đất và bầu trời. Thật là xa, thật xa, khoảng cách bờ biển bên này với bờ biển bên kia. Thật là xa, thật xa, khoảng cách chỗ mặt trời lặn và chỗ mặt trời mọc. Nhưng còn cách xa, cách xa hơn nữa là khoảng cách giữa pháp của bậc thiện và pháp của kẻ ác. "

Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đi đôi lạc không đi đôi với khổ, đề cao một kinh nghiệm bản thân của Đức Phật, là đau khổ không đưa đến giải thoát. Vương tử bồ đề trong kinh số 85, Trung Bộ II, đã đến bày tỏ cảm nghĩ của mình: "Lạc được chứng đắc không phải do lạc, Lạc được chứng đắc do khổ" (Trung Bộ II, 403).

Đây cũng là quan điểm của các Ni Kiền Tử, khi các vị này tu khổ hạnh để thiêu đốt các nghiệp ác quá khứ. Quan điểm Đức Phật khác hẳn, khi Ngài đã có kinh nghiệm 6 năm khổ hạnh của mình. Và lời dạy hay pháp môn nào của Ngài cũng đem lại an lạchạnh phúc cho người hành trì. Trước hết Ngài so sánh hai loại lạc: 

- Lạc được Đức Phật gọi là lạc như phân, tức là thụy miên lạc, lợi dưỡng lạc, cung kính lạc, danh vọng lạc (Tăng Chi I, 334-335), mà Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài tránh xa.

- Ngài đề cao lạc các bậc Thánh là viễn ly lạc, an ổn lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, Niết-bàn lạc.

Ngài khuyên các đệ tử Ngài thường đi nghe pháp để hưởng được pháp lạc, thường ngày hành thiền để hưởng được thiền lạc, thường giữ gìn 5 giới, tu tập bát quan trai giới để hưởng được thanh tịnh lạc, an tịnh lạc. Ngài gọi hành thiền là pháp môn hiện tại lạc trú, tức là đem lại hỷ lạc hiện tại cho những vị hành thiền. Sơ thiền đem lại hỷ lạc do ly dục sanh. Thiền thứ hai đem lại hỷ do định sanh. Thiền thứ ba đem lại xả niệm lạc trú. Thiền thứ tư đem lại xả niệm thanh tịnh. Như vậy người hành thiền làm cho sung mãn tràn đầy hỷ lạc do định sanh, không có chỗ nào trên toàn thân là không do hỷ lạc ấy thấm nhuần.

Một nếp sống đề cao an lạc như vậy, nhưng không hiểu sao có người lại hiểu lầm Phật giáobi quan yếm thế, trong khi đúng lý, người Phật tử phải là người lạc quan nhất đời, luôn luôn được thấm nhuần pháp lạc, thiền lạc, viễn ly lạcan tịnh lạc.

Một đặc điểm khác của đạo đức Phật giáo là đề cao một nếp sống giải thoát mọi ràng buộc. Mở đầu là các ràng buộc đối với 5 dục trưởng dưỡng tức là sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu. Đức Phật thường hay chỉ rõ sự nguy hiểm của dục: "Sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Bệnh, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục... Cục bướu... tham dính... bùn lầy, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Và này các Tỷ-kheo vì sao sợ hãiđồng nghĩa với các dục? Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các ham muốn, ngay trong hiện tại không thoát được sợ hãi. Do vậy sợ hãiđồng nghĩa với dục..." (Tăng Chi II, 309).

Trong Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung Bộ số 14, Đức Phật dạy cho Mahanàma rõ vì sao tuy vẫn biết tham, sân, si là cấu uế của tâm, nhưng tham sân si vẫn thỉnh thoảng khởi lên, Ngài dạy: "Này Mahanàma, vì pháp ấy trong ngươi chưa đựơc đoạn trừ nên ngươi sống trong gia đìnhthọ hưởng các dục". Đức Phật giải thích rõ thêm: "Này Mahanàma, khi nào các vị thánh đệ tử, khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ: 'Các dục vị ngọt ít, khổ nhiều não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn,' và vị này chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy vị ấy không bị các dục chi phối" (Trung Bộ I, 92-92B). Ở đây chúng ta thấy trí tuệ đi đôi với thiền định mới có khả năng giải thoát được lòng dục của con người, và chúng ta mới hiểu rõ vì sao Đức Phật dùng danh từ tâm giải thoát, tuệ giải thoát để diễn tả một vị được giải thoát giác ngộ, vì tâm giải thoátgiải thoát nhờ thiền địnhtuệ giải thoátgiải thoát nhờ trí tuệ. Hai giải thoát này cộng lại với nhau mới là một sự giải thoát toàn diện.

Một điểm nổi bật trong Đạo đức Phật giáovai trò trí tuệ trong tất cả các pháp môn đưa đến giải thoátgiác ngộ. Như vậy cũng dễ hiểu, vì trí tuệ mới có công năng đoạn trừ các ác, bất thiện pháp, các lậu hoặc, các kiết sử, các tùy miên vv... và vì vậy trong mọi pháp môn Phật dạy đều có vai trò nổi bật của trí tuệ. Trong ba vô lậu học giới-định-tuệ, trí tuệ đóng vai trò tuệ tri khổ, khổ tập, khổ diệt, con đường đưa đến khổ diệt; tuệ tri các lậu hoặc, các lậu hoặc tập khởi, các lậu hoặc đoạn diệt, con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt. Nhờ tuệ tri như vậy nên nhàm chán sanh, do nhàm chán nên ly tham, do ly tham đưa đến đoạn diệt, đưa đến tâm giải thoáttuệ giải thoát. Trí tuệ với khả năng giúp phân biệt đâu là pháp thiện, đâu là pháp bất thiện, đâu là pháp đen, đâu là pháp trắng, đâu là thanh tịnh, đâu là cấu uế, đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp. Nhờ sự phân biệt này, chúng ta mới có thể từ bỏ các pháp ác, thành tựu các pháp lành. Chính nhờ trí tuệ, chúng ta tuệ tri được vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của các dục.

Đức Phật xác định: "Này các Tỷ-kheo, những sa môn Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này sẽ như thật tuệ tri các dục của chúng, chúng có thể đặt người khác trong địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có xảy ra" (Trung Bộ I, 87C). Trong 37 pháp trợ đạo, pháp môn nào cũng có trí tuệ. Trong bốn niệm xứ, có quán pháp trên các pháp đối với 5 triền cái, 5 thủ uẩn, 6 nội xứ ngoại xứ; trong 5 căn, 5 lực, có tuệ căn, tuệ lực; trong 7 giác tri có trạnh pháp giác chi; trong 8 chánh đạo, có chánh tri kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ .

Một đặc điểm nữa của đạo đức Phật giáoxây dựng một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và làm cho môi trường sống vừa lành, vừa đẹp. Chúng ta thấy Đức Phật đản sanh ở ngoài trời, dưới một gốc cây, thành đạongoài trời, dưới một gốc cây, thuyết pháp lần đầu tiên ở ngoài trời, ở tại vườn nai, và thị tịch cũng ở ngoài trời, dưới gốc cây Ta La Song Thọ. Đời sống của Ngài rất gần gũi với thiên nhiên, thân cận với núi rừng, hoa viên và rừng lá. Đời sống của các vị xuất gia, đại đệ tử của Ngài cũng thường là đời sống trong rừng núi, xa chốn thị thành, và hiện các hang động còn lại như động Ajanta, Ellora, Kanheri đều nằm sâu trong núi thẳm, xác dịnh đời sống, Đạo đức tu hành bao giờ cũng hài hòa với thiên nhiên, với núi rừng. Ở Việt Nam chúng ta, chùa Yên tử, chùa Hương được xây dựng cheo leo trên núi đá, hoặc ẩn sâu trong rừng rậm. Cũng như phần lớn chùa chiền Việt Nam, chùa nào cũng có vườn cảnh, vườn hoa, cũng có hòn non bộ, cũng có hồ nước, có các loại cá bơi qua bơi lại. Nhũng hình ảnh này chứng minh một điều là đời sống của các nhà xuất gia theo Đạo Phật được sống trong môi trường thiên nhiên trong sạch, hài hòa với những cảnh xung quanh, tĩnh tâm hài hòa với tĩnh vật, trăng sao soi sáng thiền tâm.

Đạo đức Phật giáo đã là một nếp sống hài hòa với thiên nhiên thời cũng là một nếp sống hài hòa với con người. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi được Dandapàni hỏi Ngài có quan điểm thế nào và giảng dạy những gì, Đức Phật đã trả lời: "Theo lời dạy của ta, trong thế giới với chư thiên, ác maphạm thiên, với các chúng sa môn, Bà-la-môn, chư Thiênloài người, không có tranh luận với một ai ở đời" (Trung Bộ III, 109, 109A). Một câu tuyên bố nữa nói nên thái độ không tranh chấp của Đức Phật:

"Này các Tỷ-kheo, Ta không có tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Ta. Này các Tỷ-kheo, Người nói pháp không tranh chấp với một ai ở đời" (Tương Ưng III, 165).

Đặc tính cuối cùng của đạo đức Phật giáo là một nếp sống vô ngã, một triết lý uyên thâm vi diệu, vừa giúp con người tự chủ, thoát ly sự chi phối của thân người và thế giới, vừa vượt qua được các khổ đau, sầu muộn, do tánh vô thường của tự ngã và thế giới gây ra, vừa là con đường đưa đến tâm giải thoáttuệ giải thoát .

Trước hết, Đức Phật nêu lên 6 kiến xứ của người phàm phu như đã được trình bày trong Kinh Xà Dụ (22, Trung Bộ). Tức xem sắc, thọ, tưởng, hành, thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta, và xem tự ngã và thế giới sau khi chết, ta sẽ thường hằng, thường tồn mãi mãi. Trước hết, Đức Phật phân biệt giữa người phàm phu ít nghe và vị thánh đệ tử nghe nhiều, người phàm phu thời chấp thủ sáu kiến xứ này, còn vị thánh đệ tử nghe nhiều thời không. Tiếp đến, Đức Phật nói đến sự vô lý của chấp ngã như đã trình bày trong kinh Sáu Sáu, số 148, Trung Bộ 3: "Nếu mắt là tự ngã, như vậy không hợp lý. Sự sanh và diệt của mắt đã được thấy nên phải đưa đến kết luận 'Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi.' Do vậy nếu ai nói: 'Mắt là tự ngã', như vậy không hợp lý" (Trung Bộ III, 474-475). Cũng vậy, đối với các pháp khác. 

Kinh Vô ngã tướng lại nói thêm, xem 5 uẩn là tự ngã không thể chấp nhận được, vì đối với thân của ta, ta không có quyền lực muốn thân của ta phải như ý muốn ta. Do vậy không thể xem 5 thủ uẩn là tự ngã. Rồi Đức Phật nói lên những nguy hiểm đau khổ do chấp ngã gây ra: "Ai khởi nên ý nghĩ, cái gì chắc chắn của ta, nay chắc chắn không còn là của ta, chắc chắn ta không được cái ấy. Suy nghĩ như vậy, nó sầu muộn than van khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Nếu nó không suy nghĩ như vậy, thời nó đâu có sầu muộn than van" (Trung Bộ I, 136A).

Còn những ai tin rằng sau khi chết, ta sẽ thường hằng, thường tồn mãi mãi, và khi nghe Đức Phật hay đệ tử của Đức Phật giảng pháp, bạt trừ tất cả kiến xứ, tịnh chỉ các hành, từ bỏ mọi sanh y, đoạn trừ khát ái, thời vị ấy sầu muộn than van khóc lóc dập ngực đi đến bất tỉnh, vì nghĩ rằng mình sẽ bị hoại diệt, không còn tồn tại. Cho nên mọi đau khổ khởi lên đều chính do chấp 5 thủ uẩn này là của ta, là ta, là tự ngã của ta.

Để mọi người ý thức rõ 5 thủ uẩnvô ngã, Đức Phật đặt một số câu hỏi: "Sắc là thường hay vô thường? Cái gì vô thường là khổ hay lạc? Cái gì vô thường, khổ chịu sự biến hoại, liệu có hợp lý chăng nếu xem sắc là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi?" Các câu trả lời tất nhiên xác nhận sắc là vô thường, là khổ, là vô ngã, cũng như các thủ uẩn khác. Rồi Đức Phật đi đến kết luận, khích lệ các vị Tỷ-kheo cần phải quan sát: "Này các Tỷ-kheo, bất cứ sắc pháp nào ... cảm thọ nào ... tưởng nào... hành nào... thức nào quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần tất cả thức là: 'Cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngả của tôi' (Trung Bộ I, 138A). Nhờ quán như vậy, vị Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng ... đối với hành... đối với thức. Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát có trí biết được đã giải thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hành đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa" (Trung Bộ I, 139).

Như vậy chính nhờ quán vô ngã, vị hành giả chứng được Thánh quả. Và đã chứng Thánh quả thời mọi đau khổ đều được tiêu diệt hoàn toàn. Như vậy Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc cho con người, đề cao giá trị con người, một nếp sống trong sạch thanh tịnh, lành mạnh, loại bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, một nếp sống đi đôi với lạc, không đi đôi với khổ, giải thoát các triền phược, các dục trưởng dưỡng, một nếp sống trong ấy trí tuệ đóng vai trò then chốt, sống hài hòa với thiên nhiên, với con người, một nếp sống vô ngã vị tha.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9970)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7069)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7312)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6964)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9329)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5822)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7086)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6506)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6080)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7144)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14343)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20368)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9452)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7836)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8169)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7424)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9352)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7435)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7448)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7644)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9437)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8756)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7346)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7944)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 6990)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7651)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9834)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8269)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8811)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7655)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8812)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8620)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7988)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8989)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9404)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8709)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8867)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7209)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9145)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8580)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7876)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9589)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10137)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8736)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8331)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7613)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9298)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7457)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15325)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7272)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8456)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12201)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7280)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11475)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8289)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8009)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7890)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8899)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7395)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18156)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant