Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Rút tỉa những kinh nghiệmquán triệt tư tưởng Tịnh Độ đối với Phật Tử Việt Nam

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 11698)
Rút tỉa những kinh nghiệm và quán triệt tư tưởng Tịnh Độ đối với Phật Tử Việt Nam
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


VIII. CON ĐƯỜNG TỊNH ĐỘ

Rút tỉa những kinh nghiệmquán triệt tư tưởng Tịnh Độ đối với Phật Tử Việt Nam

Niệm Phật được vãng sanh thì đã có không biết bao nhiêu là câu chuyện được kể. Từ Trung Quốc đến Tây Tạng, từ Nhật Bản đến Việt Nam, từ Trung Quốc ra hải ngoại ngày nay. Các gương "Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi" là những thành quả của những người tu theo pháp môn nầy.

Có nhiều người nói rằng: Ngày xưa Đức Phật tu thiền chứng Đạo; chứ Ngài có niệm Phật để thành Phật đâu?

Điều ấy không sai; nhưng ngoài Thiền không có Tịnh Độ và ngoài Tịnh Độ không có Thiền. Bởi vì thời Đức Phật còn tại thế, căn cơnghiệp lực của chúng sanh còn dễ hướng thượng để tu Thiền. Ngày nay, nhất là trong thời kỳ mạt pháp nầy, theo như chư vị Tổ Sư vẫn thường hay đề cập đến, thì việc tu Thiền không phải đơn giản để thành tựu quả vị Phật trong đời nầy. Số nầy tương đối ít, chỉ để dành cho những bậc Thượng Căn Thượng Trí. Còn Pháp môn Tịnh Độ cũng chính do Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni nói ra và dành cho đại đa số quần chúng, chứ không nhất thiết chỉ để dành riêng cho một hạng người nào. Đây là cảnh giới giải thoát có xen tạp với đủ hạng người; nhưng vì lòng bi mẫn của Đức Phật A Di Đà mà Ngài đã phát ra 48 lời nguyện để trang nghiêm quốc độ của Ngài.

Ngay cả bản thân tôi, khi mới đến xứ Đức (1977) cũng vì phương tiện dùng Thiền Tào Động (Thiền Mặc Chiếu) để ứng dụng cho mình và hướng dẫn những người Đức tu học. Sau nầy tôi hướng dẫn họ vào Tịnh Độ một cách dễ dàng; nhưng người Tây Phương nếu muốn tu Tịnh Độ, chắc cần phải một thời gian lâu dài hơn nữa, họ mới có thể quán triệt hết pháp môn nầy.

Riêng đối với người Việt Nam tại Đức, tôi là người đầu tiên đến khai sơn, truyền bá Đạo Phật tại đây; người mà xuất thân từ Lâm Tế của quê hương xứ Quảng Nam, học Nhật Liên Tông ở Nhật, ứng dụng Thiền Tào Động tại Đức và tu theo pháp môn Niệm Phật. Do vậy long vị của tôi ngày sau khi tôi ra đi chắc nên viết như thế nầy:

 

 

Hán Việt

 

 

Việt Ngữ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Việt

 

 

Tông

 

 

 

Nam

 

 

Lâm

 

 

 

Lâm

 

 

Tế

 

 

 

Tế

 

 

Việt

 

 

 

Tông

 

 

Nam

 

 

Viên

Đức

Lai

Ra

Phương

Đến

 

tịch

Quốc

Thế

Đi

Trượng

Đây

 

ư

Khai

Kỷ

Ngày

Khai

Ngày

 

:

Sơn

Sửu

:

Sơn

Hai

 

Niên

Phương

Niên

Tháng

Chùa

Tám

 

:

Trượng

Nhứt

:

Viên

Tháng

 

Nguyệt

Viên

Củu

Năm

Giác

Sáu

 

:

Giác

Tứ

:

Nước

Năm

 

:

Tự

Cửu

:

Đức

Một

 

Nhựt

Tứ

Lục

Sống

Đời

Chín

 

Đạo

Thập

Nguyệt

Đạo

Thứ

Bốn

 

Thọ

Nhứt

Nhị

:

Bốn

Mươi

 

:

Thế

Thập

:

Mốt

Chín

 

:

Thượng

Bát

Năm

Pháp

 

 

Tuế

Như

Nhựt

 

Danh

 

 

 

Hạ

 

 

Như

 

 

 

Điển

 

 

Điển

 

 

 

tự

 

 

tự

 

 

 

Giải

 

 

Giải

 

 

 

Minh

 

 

Minh

 

 

 

Hiệu

 

 

Hiệu

 

 

 

Trí

 

 

Trí

 

 

 

Tâm

 

 

Tâm

 

 

 

Hòa

 

 

Hòa

 

 

 

Thượng

 

 

Thượng

 

 

 

Liên

 

 

Tòa

 

 

 

Tòa

 

 

Sen

 

 

 

 

 

 

 

 

 












Sau khi tìm hiểu ngọn ngành của Tịnh Độ Tông từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi Đại Hàn, Nhật Bản, tôi thấy các nước nầy có sự truyền thừa rất rõ rệt và các vị Tổ Sư đã vang bóng một thời, xây dựng nên đạo nghiệp. Còn riêng Việt Nam chúng ta, quê hương nhiều bất hạnh; nhưng không phải là thiếu sự truyền thừa. Tôi chỉ mong ở những thế hệ sau nầy tiếp nối con đường làm rạng danh Tổ Đức. Còn với tôi trong hiện tại (2011), tuổi đời đã 63, tuổi đạo 48, hạ Lạp 41. Do vậy mà những điều gì khó khăn hơn xin trao lại cho tương lai của tuổi trẻ và riêng phần mình, tôi chỉ xin đơn cử những điều cần yếu như: Việc niệm Phật để cầu vãng sanh nên dựa vào ba kinh Tịnh Độ làm chính. Từ đó chúng ta lấy 3 bộ kinh nầy làm căn bản để phát triển việc vãng sanh.

Theo tôi có 3 điều kiện cần yếu như sau:

Thứ nhất: Niệm Phật chắc chắn được vãng sanh về cõi giới Cực Lạc. Vì lẽ qua bản nguyện của Đức Phật A Di Đà cũng như tha lực của Ngài, căn cứ theo lời nguyện thứ 18, tất cả chúng sanh đều sanh về thế giới nầy. (Theo kinh Vô Lượng Thọ).

Thứ hai: Niệm Phật chắc chắn được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Vì lẽ qua kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật đã chỉ bày cho bà Hoàng Hậu Vi Đề Hy quán tưởng cũng như Đệ nhất Tổ Sư Tịnh Độ Việt Nam Ngài Đàm Hoằng đã thực hiện; nên việc niệm Phậtquán tưởng cảnh giớihình ảnh chư Phật rất cần thiết cho việc vãng sanh. (Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ).

Thứ ba: Niệm Phật chắc chắc được vãng sanh về cõi giới Cực Lạc. Vì lẽ thế giới nầy do Đức Phật A Di Đà biến hóathành tựu. Từ chim chóc, ao hồ, cảnh trí v.v... Thế giới biến hóa ấy đã làm cho chư Phật trong 10 phương phải ngợi khen. Do vậy khi niệm Phật nên nghĩ tưởng rằng: Cõi nầy là cõi hóa sanh. (Theo kinh A Di Đà).

Theo tôi, người đời sau chỉ cần niệm Phật và việc được sanh về cõi giới Cực Lạc là do Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn, không có gì để lo lắng cả. Vì niệm Phật chắc chắn được vãng sanh và sẽ thành Phật. Điều nầy dựa theo 3 kinh căn bản trên của Tịnh Độ Tông và theo phần quán về Hạ Phẩm Hạ Sanh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng như phẩm Phạm Hạnh trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Đây là chứng cớ: Dẫu cho kẻ ấy có bị phạm tội ngũ nghịch hay nhứt xiển đề, cuối đời nếu phát tâm niệm Phật vẫn được sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc như thường. Nhưng điều kiện quan trọng là chúng sanh ấy phải biết tàm quý (xấu hổ) về những nghiệp cũ mình đã gây tạo ra trong bao đời trước và phải nhờ có thiện hữu tri thức gần gũi trong lúc lâm chung, khuyên ta niệm Phật. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện nầy thì thai cung biên địa của cõi Cực Lạc thế giới kia cũng khó sanh vào, dẫu cho Đức Phật A Di Đà và chư vị Thánh chúng Quan Thế Âm Bồ TátĐại Thế Chí Bồ Tát vẫn có ý chờ đợi ta nơi cõi Vô Sanh ấy.

Thời gian sau 100 năm, 500 năm hay 1.000 năm có trôi qua đi nữa, đây chính là tư tưởng của tôi (Thích Như Điển) về Tịnh Độ, mà tôi muốn rút tỉa những kinh nghiệm đã nghiên cứu và mong rằng quý Phật Tử Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước nên quán triệt điều nầy để thực hành thì quả là công đức không nhỏ.

Sau đây là phương pháp hành trì.

A- Cho từng cá nhân :

Nếu tự mình niệm Phật thì không phải là vấn đề khó. Vì mình làm chủ việc nầy. Việc niệm Phật nầy có thể thực hiện nơi nhà riêng, trước bàn thờ Phật hay khi nằm (nếu bịnh hoạn). Trên tay cầm xâu chuỗi, miệng luôn luôn niệm thành tiếng hay niệm thầm 6 chữ Hồng Danh Nam Mô A Di Đà Phật; nhưng phải chú ý về 3 điều kiện đã nên trên; nếu niệm chỉ để niệm thì việc niệm Phật cũng ích lợi; nhưng không sâu sắc và không thể vãng sanh về ở phẩm vị cao hơn nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Cũng có thể niệm đếm số (niệm Phật công cứ) để biết rằng mỗi ngày mình đã niệm được bao nhiêu và tổng kết hằng tháng, hằng năm có chư Tăng Ni chứng minh để được lợi lạc.

B- Cho tập thể :

Việc nầy có nhiều cách. Ví dụ như ở Đạo Tràng Tu Bát Quan Trai, Đạo Tràng Niệm Phật, niệm khi có người mất, tuần thất, khóa tu học nhiều người v.v...

Việc nầy cần trang nghiêmđều đặn từng trong động tác một của đi, đứng, nằm, ngồi. Người Nhật, người Hoa thể hiện việc nầy rất đồng bộ. Riêng Phật Tử Việt Nam ở trong nước chỉ mới thấy được Đạo Tràng chùa Hoằng Pháp tại Hóc Môn là có quy củ nhất. Trong khi đó ở ngoại quốc ngày nay chưa thấy nơi nào có được quy củ như vậy.

Ví dụ Đạo Tràng Tu Bát Quan Trai: Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy rằng: Nếu ở cõi Ta Bà nầy có người nào tu tập thanh tịnh trong một ngày một đêm thì công đức ấy bằng một năm ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu kẻ nào tu được nhiều ngày nhiều đêm thanh tịnh, thì ở thế giới Cực Lạc bằng nhiều năm như vậy. Pháp tu nầy Đức Phật đã hướng dẫn cho Vua Tần Bà Sa La, thân phụ của Vua A Xà Thế, lúc bị con mình giam vào tù. Nhà vua đã đích thân thực hiện việc nầy trong nhiều năm tháng. Cho nên khi vua chết, đã được sanh Thiên.

Vì sao tu Bát Quan Trai giớithế giới Ta Bà mà được thành tựu như vậy? – Vì lẽ cõi nầycõi ác, cõi không thanh tịnh... mà người nào có tâm thanh tịnh để giữ gìn 8 giới pháp ấy trong một ngày một đêm, thì kết quả lại được như vậy.

Thông thường Bát Quan Trai người ta cũng có thể tự thọ ở nhà; nhưng ngày nay thì thường hay tổ chức tại Chùa hay ở những nơi công cộng vào cuối tuần hay 14, rằm; hoặc 30, mồng một, để mọi người có thể dễ tụ họpsám hối, tụng kinh, niệm Phật, lễ bái... trong những ngày chay tịnh ấy. Điều chúng tôi muốn đề cập ở đây là làm sao cho thành nếp, mới là điều đáng quý. Quý Đạo Hữu, Phật Tử nên có những chiếc áo tràng màu lam thanh lịch. Đây thuộc về lễ phục, mà chỉ riêng Phật Tử Việt Nam mới có; còn Phật Tử các nước khác trên thế giới không ăn mặc đồng đều như chúng ta. Tuy nhiên vấn đề hàng ngũ không ngay ngắn và việc lễ bái, kinh hành niệm Phật lúc đi cũng như lúc lạy xuống, lúc đứng lên chưa đều. Mặc dầu đã có tiếng khánh, tiếng chuông dẫn lễ đi kèm; nhưng người già kẻ trẻ lạy lên xuống chưa đồng đều. Do vậy từ ngoài nhìn vào thấy lổm chổm khó coi. Ngay cả tiếng tụng kinhniệm Phật cũng vậy, phải nên đồng giọng; cao thấp đều hòa thì mới trang nghiêm. Khi chúng ta đi xem một buổi hòa tấu hay một điệu múa, chúng ta sẽ nhận ra được điều ấy. Chúng ta cho là điệu múa hay, vì những người múa đều và chúng ta nghe hòa tấu cảm thấy thích thú, vì mọi âm điệu, tiết tấu, đều hòa nhau, ăn khớp với nhau. Ở đây niệm Phật cũng vậy. Có thể có nhiều cách niệm khác nhau; nhưng vấn đề quan trọng là hòa. Điểm nầy Phật Tử Việt Nam chúng ta ở trong cũng như ngoài nước cần lưu ý.

Đạo Tràng Niệm Phật thì số lượng người tham gia chắc chắn đông đảo và về đây chỉ có một việc duy nhấtniệm Phật. Có thể kéo dài trong suốt một ngày, hai, ba cho đến bảy ngày như vậy. Ở Âu Châu mỗi năm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại đây tổ chức những khóa tu học Phật Pháp trong 10 ngày cho trên dưới 1.000 người ở mỗi nước khác nhau. Năm nay 2011 tổ chức tại Áo có 1.024 người tham dự trong kỳ thứ 23 nầy và kỳ thứ 24 sẽ tổ chức tại Anh Quốc (Birmingham) từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 5 tháng 8 năm 2012. Cứ mỗi kỳ như vậy đều dành ra một ngày niệm Phật miên mật từ sáng cho đến chiều tối. Mỗi lần niệm chừng 2 tiếng đồng hồ và chia ra làm 4 nhóm khác nhau. Việc niệm Phật có thể thực hiện các việc như :

- Tụng kinh Tịnh Độ

- Kinh hành nhiễu Phật

- Lễ bái 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà.

Trong khi tại Việt Nam, Đạo Tràng tu niệm Phật ở chùa Hoằng Pháp mỗi lần như thế quy tụ cả 5,7 ngàn người. Đây là một đạo tràng tương đốiquy củ, có tổ chức. Từ việc ăn uống, ngủ, nghỉ cho đến việc tụng kinh, bái sám v.v...

Những Đạo Tràng Niệm Phật như vậy chủ yếu việc tu hành niệm Phật là chính. Còn nghe pháp cũng như tọa đàm thì không cần nhiều. Vì lẽ ở những khóa học khác đã nghe rồi. Còn Đạo Tràng Niệm Phật nên chuyên tu nhiều hơn.

Tại chùa Viên Giác Hannover cũng như các Chùa khác tại xứ Đức và Âu Châu mỗi năm đều căn cứ vào các ngày lễ vào cuối năm, hay hè hoặc lễ vía cũng tổ chức những tuần lễ Phật thất như vậy. Mỗi lần quy tụ được cả mấy trăm người; nhưng vấn đề đều nhau ở mọi phương diện vẫn chưa thực hiện được. Tôi không biết tại sao? Đâu là lý do chính?

Bây giờ mọi người Phật Tử ở trong cũng như ngoài nước đều ham tu; nhất là môn niệm Phật. Vì lẽ đây là pháp hành. Nếu thực hành pháp niệm Phật một cách miên mật thì âm thanh ấy, hình ảnh trang nghiêm cả ngàn người ấy chư Thiên sẽ ngoảnh tai lại để nghe. Chư vị Bồ Tát sẽ nở nụ cười hoan hỷ và Đức A Di Đà ở xa xa phóng quang đến và Ngài sẽ bảo rằng: "Một hoa sen nơi cõi Tây Phương Cực Lạc đang chờ đợi con đó!". Niệm Phậtchư Thiên, chư vị Bồ Tát Thánh Chúng, chư Phật trong 10 phương thế giới còn phải quan hoài đến thì huống chi là loài người. Dầu cho vị ấy có tu Thiền hay tu Mật đi nữa mà nghe tiếng niệm Phật của cả 1.000 người đều đặn, trầm bổng và khi nhìn thấy hàng lối thẳng tắp hoặc lúc quỳ đảnh lễ thấy nhịp nhàng thì tim của Thiền Sư sẽ đập nhịp khác; mắt Thiền Sư sẽ nhìn khác về những người đang quyết tâm tu học cầu giải thoát nầy.

Việc hộ niệm khi có người sắp lâm chungvấn đề quan trọng. Phần nầy đối với Phật Tử Việt Nam tại ngoại quốc ít có cơ hội thực hiện miên mật, vì người mất ở xa nơi mình cư ngụ; nhưng ở Việt Nam thì có thể dễ dàng hơn. Các vị Đại Sư đến hộ niệm cho người sắp lâm chung nên giảng về vô thường, vô ngã, khổ, không v.v... Vì lúc cận tử nghiệp đến người ấy đang ở trong trạng thái lâm sàng rất cần những lời khuyên nầy và lúc ấy họ nghe dễ hiểu cũng như chấp nhận những gì vị Đạo Sư khuyên dạy dễ dàng hơn. Dẫu sao đi nữa thì người sắp mất cũng phải học buông xả ngay lúc nầy. Riêng phần những người Phật Tử đến hộ niệm chỉ nên đứng hai bên giường người sắp mất để niệm Phật và không nên đứng phía dưới chân giường. Vì phía dưới cơ thể là nơi tâm thức của người ấy xuất ra để đi đầu thai hoặc vãng sanh. Chỉ riêng vị Đạo Sư nên đứng bên trên đầu của người sắp mất để giảng pháp hoặc hộ niệm khi Đại Chúng niệm Phật.

Riêng phần nghi lễ ma chay của Việt Nam ở trong nước vẫn còn rườm rà; nhưng ở ngoại quốc ngày nay đa phần đã được đơn giản hóa theo những tục lệ và hoàn cảnh địa lý nơi có người Việt Nam cư ngụ; nhưng điều thiết yếu là những lễ nghi căn bản truyền thống không làm cho nó mất đi, mà cố gắng giữ lại được phần căn bản nào thì hay phần ấy. Hơn 3 triệu người Việt Nam đang có mặt trên thế giới ngày nay đang sinh sống thì cũng sẽ có hơn 3 triệu cái chết như thế. Đó là chưa kể đến việc sinh sôi nảy nở trong 10, 20 hay 30 năm nữa trên quả địa cầu nầy. Nếu là Phật Tử, chúng ta lo chuẩn bị trước cho sự ra đi của mình, thì tang lễ và những ngày tuần thất của thân nhân chúng ta sẽ tương đối ít bỡ ngỡ. Bằng ngược lại, chẳng có một sự lo toan nào cả, khi việc quan trọng của đời người đến, lúc ấy chẳng biết xoay xở làm sao cho hợp tình hợp lý đây. Đó là một trong những vấn đề quan trọng của cuộc đời.

Khi đến thăm nhà một người Nhật, một người Đại Hàn hoặc giả đến những ngôi Chùa hoặc những nơi trang nghiêm được thờ tự của họ, chúng ta thấy cảm mến. Vì lẽ không ai bảo ai, trước khi bước vào nhà hay vào chùa tất cả giày dép đều tự động cởi ra và họ tự động sắp thành hàng ngay ngắn để chiếc giày hay đôi dép quay mặt ra phía ngoài để khi lễ xong, cúi xuống xỏ chân vào giày dép được thuận chiều. Một người cũng vậy, 10 người cũng vậy, 100 người cũng thế hay dẫu cho 1.000 người cũng vậy thôi. Đây là một nét đẹp truyền thống. Vì lẽ người lớn, người già, con trẻ ai ai cũng tuân thủ theo quy luật tự nhiên nầy, trong khi đó người Việt Nam chúng ta vẫn tôn trọng ngôi Tam Bảo, vẫn lễ bái nguyện cầu; nhưng nếu ai đó có lưu tâm về những đôi giày đôi dép để ở phía trước hàng ba của Chùa hay trước cửa nhà tư nhân... thì chúng ta thấy chưa hoàn toàn lắm, vẫn còn thiếu trật tựtrách nhiệm tự thân của mỗi người. Như bên trên chúng tôi đã có lần đề cập đến người Nhật họ xây dựng đất nước họ bằng chỉ 3 điều tâm huyết mà thôi.

Đó là:

- Đúng giờ

- Sạch sẽ

- Tin tưởng với nhau

Đây là những bài học căn bản của một đại cường quốc Á Châu mà 130 triệu người ấy đã có hơn 2 phần 3 hay nói đúng hơn là gần như 100% đều thực hiện được. Cho nên nước của họ mới giàu, dân của họ mới mạnh như vậy. Còn dân tộc ta ngày nay có mặt ở khắp nơi trên quả địa cầu nầy, so sánh về phương diện cá nhân giữa người nầy và người khác, chúng ta chẳng thua ai cả; nhưng so sánh một tập thể, kể cả tập thể của Tôn Giáo thì chúng ta cần phải học hỏi ở những dân tộc Đông PhươngTây Phương gấp nhiều lần hơn thế nữa thì chúng ta mới đáng hãnh diện là người có ý thức cao trong thế giới tâm linh cũng như thế giới hữu hình nầy.

Khởi đi từ những ý niệm đơn giản lúc ban đầu là làm sao tạo được một hệ thống, nhất là hệ tư tưởng của Tịnh Độ Tông Việt Nam. Cho nên sau bao nhiêu năm suy nghĩ, tìm đọc các sách vở Đông Tây, cũng như thể hiện cuộc đời của mình như là một hành giả nhiệt thành với Tịnh Độ Tông, tin tưởng tuyệt đối vào pháp môn niệm Phật của chư Tổ đã khai tông lập giáo tự ngàn xưa và ngay tự ngàn sau, những người tu theo pháp môn nầy cố gắng giữ gìn những nghiệp lành, tô bồi những phước đức, thể hiện lòng từ bi, lợi tha đối với muôn loài, nhằm hướng đời mình ở tương lai có thể sanh vào thế giới cao cả hơn bây giờ; nơi đó không có luân hồi sanh tử chi phối và nơi ấy không phải bị lòng tham vị kỷ của con người khuynh loát, mà chỉ toàn là ánh sáng chân lý, những lời pháp ngọt ngào êm dịu, nhằm đưa nhân sinh đi vào cảnh giới rốt ráo giải thoát sanh tử luân hồi, thì đó mới là điều ước nguyện của chính tôi, chư Tổ và các vị Bồ Tát trong đời nầy. Nhờ vậy mà chúng ta mới có cơ hội để được dự phần trong ấy.

Xin tặng người một đóa sen giác ngộ giải thoátthế giới Tây Phương Cực Lạc và xin cùng người phát tâm niệm lớn câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật để tất cả chúng tachúng sanh đều sớm thành Phật Đạo.

Xin chắp hai tay ngang ngực, thành kính hướng về cảnh giới phương Tây; nơi có Đức Phật A Di Đà đang giáo hóa chúng sanh và nhị vị Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí để đảnh lễtrì niệm danh hiệu của các Ngài để hồi hướng những phước báu nếu có được cho những ai đó có cơ duyên đọc được tác phẩm nầy và hồi hướng cho họ sớm lìa xa ác trược nơi cảnh giới Ta Bà để được sanh về Tây Phương Cực Lạc sau khi đã thành tựu những công hạnh tại thế gian nầy.

Hồi hướng

Công đức sáng tác rất nhiệm mầu

Vô biên thắng phước đều hồi hướng

Khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới

Đều được vãng sanh về Cực Lạc.

 

Thích Như Điển

 

Núi đồi Đa Bảo vùng Blue Mountains,

New South Wales Úc Đại Lợi

ngày 2 tháng 12 năm 2011, nhân lần

nhập thất, tịnh tu lần thứ 9 tại đây.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14176)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19363)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24628)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15743)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37830)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13099)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21639)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12817)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28622)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32187)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12004)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26292)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17377)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14525)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13415)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26945)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14462)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13256)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12539)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13154)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12316)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11798)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17664)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12996)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11324)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10838)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11078)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28900)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25284)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18677)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23040)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34551)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant