Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm và tướng

24 Tháng Chín 201200:00(Xem: 17882)
Tâm và tướng
TÂM VÀ TƯỚNG 
Thành Văn

 

tamvatuong-thanhvan Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả. Quả có quả lành, quả ác do bởi tâm lành ác sinh ra. Tu là sửa cái tâm; tức cái nhân để có thể nhận được quả theo ý muốn.

 Để cái tâm chạy theo trần cấu nhiều đời nhiều kiếp thành thói quen, thành nghiệp. Nghiệp sẽ lôi kéo chúng sanh đi theo con đường mòn nó đã vạch ra, không có gì cưỡng lại được.

 Vấn đề rất sâu rộng. Ở đây người viết chỉ dám bàn lướt qua mối tương quan nhân/ quả giữa tâm và tướng.

 Trong dân gian quần chúng sáng tác ra rất nhiều truyện ảnh hưởng đậm nét của tinh thần Phật giáo. Một trong những câu chuyện đó người viết được nghe kể như sau:

 Xưa, có một chàng nho sinh nhà nghèo lắm, không có tiền mua dầu thắp để học đêm. Mỗi tối chàng đều phải đến ngôi chùa gần nhà để xin sư cụ cho học nhờ dưới ánh sáng của những ngọn đền dầu trong chùa. Nhà nghèo, biết thân phận nên anh học trò sống rất khiêm cung, lễ phép với mọi người. Chàng cố công dùi mài kinh sử mong đến ngày lai kinh ứng thí, đỗ đạt ra làm quan để trước ấm cái thân, sau là mở mày mở mặt với họ hàng làng nước 

 Trên con đường lên chùa, hàng ngày nho sinh phải đi ngang qua một cái miễu thổ thần, trước miễu có pho tượng nhỏ bằng đất nung. Pho tượng cũng mũ mãng cân đai, được đặt ngồi trên một bệ đá.

 Nhiều năm trời như vậy, anh chàng chăm chỉ học hành. Một hôm khi vừa đi ngang qua miễu chàng ngạc nhiên thấy pho tượng bỗng nhiên đứng dậy, nghiêng người chào mình. Chàng ngạc nhiên lắm, bèn dừng chân lên tiếng lễ phép hỏi tượng:

- Tôi là gã nho sinh nhà nghèo, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ lành. Hàng ngày phải lên chùa nhờ ánh đèn dầu nơi cửa Phật để dùi mài kinh sử. Bấy lâu nay đi ngang đây đều có nghiêng mình chào thần. Nay sao bỗng nhiên thần đứng dậy như chiều thi lễ là tại lý do làm sao?

 Tượng đất vẫn đứng vừa lên tiếng:

- Tôi vốn là thổ địa ở đây, hàng ngày chứng kiến ông qua lại. Trước đây thấy ông là nho sinh, tướng nghèo hèn, bần bạc. Lúc sau này bỗng tướng đổi khác. Tuy vẫn quần manh, áo vá, ốm yếu xanh xao, nhưng vẻ mặt và dáng đi đã lộ ra cách quyền quý giàu có. Tôi tra sổ thiên đình, thấy ông được thượng đế cho đỗ trạng nguyên kỳ này. Ông sẽ xuất chính làm quan to, cai quản cả vùng này. Tôi là thổ địa ở đây tất dưới quyền cai quản của ông, nên đứng dậy chào ông là vì thế.

 Sinh nghe thổ địa nói thế lòng mừng khấp khởi. Ít lâu sau chàng đâm chểnh mảng chuyện học hành. Hàng ngày vẫn đến chùa xin học nhờ, nhưng đi trễ về sớm, không chuyên cần như xưa. Trước đây tính tình khiêm cung. Ai nói phải quấy gì cũng vâng dạ, kính già yêu trẻ. Nay, nghĩ mình sắp trở thành giai cấp cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nên cử chỉ thái độ thường tỏ ra khinh bạc. Không vừa lòng ai điều gì thường buông ra lời đe dọa.

 Thời gian cứ thế trôi. Gần đến ngày triều đình mở khoa thi, nho sinh mừng thầm trong bụng ngày vinh hiển sắp đến. Thi đỗ ra làm quan, tha hồ võng lọng, vợ đẹp con xinh, của cải do dân đút lót chất đầy kho tha hồ ăn xài.

 Lòng nghĩ thế, nên tuy vẫn hàng ngày ôm sách lên chùa học nhờ, nhưng mặt mày trở nên vênh váo, mắt chỉ nhìn lên, nên không để ý thấy tượng thổ địa vẫn chỉ ngồi im, không còn đứng dây chào khi thấy sinh đi ngang qua nữa.

 Kịp gần đến ngày lên đường lai kinh ứng thí, một bữa đi ngang qua miễu sinh chợt để ý thấy chuyện thay đổi ấy nơi thổ địa, bèn lên tiếng hỏi:

- Trước ta đi ngang qua tượng vẫn đứng dậy chào. Nay sao lơ là, không chào nữa, là cớ làm sao?

 Tượng vẫn ngồi, từ tốn trả lời: - Trước đây ông chăm chỉ học hành, lòng dạ khiêm cung, biết kính trên nhường dưới, nên cảm động đến trời. Thượng đế cho ghi tên ông vào bảng vàng, thi đỗ làm quan. Nay ông đổi tính, tâm địa ngạo mạn, bỏ bê học hành, thượng đế giận, ngài đã cho xóa tên ông trong bảng vàng rồi. Ông vẫn là bần sĩ, sao tôi lại phải chào ông?

 Nho sinh nghe xong, mặt mày biến sắc, nhưng biết đã quá trễ. Kỳ thi ấy sinh cũng lều chõng đi thi, nhưng chẳng đỗ đạt gì.

 Trong dân gian từ đó mới có câu “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”. Vẫn chàng nho sinh ấy, nhưng tướng thay đổi theo tâm. Tâm lành sanh tướng tốt. Tâm ác hiện tướng xấu là thế. Sách cũng có câu: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt” (Có tâm không tướng, tướng tự tâm mà sinh. Có tướng, nhưng không có tâm, tướng sẽ theo tâm mà diệt đi).

 Trên đất Mỹ, ở một số nơi như thư viện, trường học, hội quán… người ta thấy có trưng bày những câu châm ngôn thế này:

 Watch your thoughts, they become words.

 Watch your words, they become actions.

 Watch your actions, they become habits.

 Watch your habits, they become character,

 Watch your character, it becomes your destiny.

 (Tạm dịch: Hãy canh chừng những tư tưởng của bạn/ Nó sẽ trở thành lời nói. Hãy canh chừng lời nói/ Chúng sẽ phát ra thành hành động. Hãy canh chừng hành động/ Chúng sẽ thành thói quen. Hãy canh chừng thói quen của bạn/ Chúng sẽ tạo nên nhân cách. Hãy coi chừng nhân cách bạn/ Nó sẽ trở thành số mệnh của bạn đấy.)

 Bên dưới ghi tên tác giả là Frank Outlaw. Tuy nhiên nhiều người cho rằng nguồn gốc câu ấy không rõ ràng. Có người bảo câu ấy là của Thánh Gandhi.

 Cho dù ai nói thì những phát biểu trên cũng phù hợp với quan niệm “Vạn pháp do tâm” của Phật giáo. Cái người ta gọi là số mệnh chẳng phải do một Thượng đế hay ông trời nào áp đặt, nó hình thành từ chính tư tưởng chúng ta

 Ở đây sẽ bàn về hai phương diện: tâm linh và khoa tâm lý học.

 Người học Phật, không ai là không biết, một trong những luận đề cơ bản vị bổn sưđức Phật cho đến các tổ sau này đều dạy tín đồ rằng “tâm là gốc của vạn pháp” (vạn pháp do tâm tạo). Các pháp khởi sinh, biến hóa, lành dữ đều do tâm. Người tu hành, trước hết là tu tâm. Sửa chữa, uốn nắn ngay từ cái tâm. Khi cái tâm đã ngay chính, mọi pháp theo sau sẽ trở nên ngay chính, trong đó có hình tướng.

 Đức Phật, bậc đại giác đã hoàn toàn làm chủ tâm. Ngài đã tu tập trong nhiều kiếp, gột rửa tâm trở nên hoàn toàn trong sạch, nên trong kinh sách mô tả Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Những tướng tốt, vẻ đẹp của Phật là gì người theo Phật đã biết. Tựu trung đó là những nét thánh thiện, tốt lành gây nên lòng kính ngưỡng, mến mộ nơi kẻ nhìn. Đấy là một sắc tướng hoàn hảo theo một quan niệm nào đó của thế gian tương đối. Thực tế, khi đạt quả vị Phật, Đức Thế tôn đã vượt thoát ra khỏi mọi pháp thế gian. Ta thường nói “không thể nghĩ bàn”.

 Cho nên nói “Phật có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp” cũng chỉ là cách nói ước lệ nhằm thỏa mãn sự ngưỡng vọng của người phàm phu chúng ta đối với bậc giác ngộ mà thôi. Chứ Phật đã nhập Niết bàn, tức chân lý tuyệt đối, vượt khỏi sự phân biệt, đối đãi nhị nguyên. Nên làm gì còn có đến 32 tướng, 80 vẻ dáng khác nhau?

 Đến chùa chiền của những quốc gia khác nhau chúng ta thấy hình dáng vẻ mặt các pho tượng Phật cũng khác nhau. Người nước nào thì tạc tượng mang vẻ mặt người nước đó. Tượng Phật ở Thái Lan có khuôn mặt của người Thái. Tượng Phật ở Trung Hoa có vẻ mặt người Trung hoa. Phật ở Nhật Bản, ở Đại Hàn, ở Việt Nam đều có vẻ mặt khác nhau, mang đường nét của người nam nước ấy.

 Từ đức Phật đầu tiên là người Ấn Độ, khi Phật giáo truyền qua các nước khác, nhân dạng ngài cũng đổi theo, trở thành người của nước khác.

 Sau này giả sử đạo Phật trở nên thịnh hànhÂu Mỹ, các tượng Phật sẽ có nét mặt của người Âu Mỹ. Tướng Phật theo tâm chúng sanhthành hình. Chùa chiền cũng vậy. Trang phục người tu sĩ và hàng phật tử cũng thế, đều theo tâm mà biến hiện.

 Nói theo khoa tâm lý học, tư tưởng mỗi con người dự phần rất lớn tạo ra hình tướng của chính cá nhân con người ấy. Có những đứa bé khi còn nhỏ rất xinh đẹp, khi lớn lên mặt mũi, hình dáng thay đổi, không còn đẹp nữa, do bởi hoàn cảnh sống thay đổi. Những va chạm trong đời sống tạo nên trạng thái tâm lý thích ứng với hoàn cảnh. Do tâm địa, do nghề nghiệp mà những đường nét trên khuôn mặt, trong phong thái cử chỉ mà tạo thành tướng trạng.

 Khoa bói toán, xem tướng chẳng qua cũng dựa trên những kinh nghiệm nhiều đời đúc kết lại để diễn giải dựa trên các quy luật về tâm lý.

 Trong các truyện cổ tích và sau này truyện đem vào phim ảnh, các mụ phù thủy đều mang một nhân dáng và khuôn mặt xấu xí đanh ác: thân thể gầy gò, lưng còng, mặt mũi xương xẩu, má hóp, mũi như sống dao, khoằm xuống như mỏ diều hâu, đôi mắt lộ, tóc tai bơ phờ…Dĩ nhiên hình ảnh bà phù thủy được mô tả trong phim, truyện đều đã được người nghệ sĩ sáng tạo ra cố tình làm nổi bật cái tâm độc ác của mụ.

 Trong thực tế, những kẻ mang tâm địa độc ác dù không đến nỗi luôn luôn phải mang bộ mặt xấu xí, nhưng trên nét mặt những hạng người ấy vẫn để lộ những nét hung dữ. Kẻ ác trong đầu họ thường suy nghĩ căng thẳng những mưu kế hại người. Tâm lý thù hằn ảnh hưởng trên các tuyến nội tiết và cơ thể họ thường xuyên tiết ra các độc tố, tràn vào trong máu, khiến sắc mặt họ thường u hãm, chứ không được tươi nhuận. Mắt nhìn thường đổ hào quang sắc lạnh. Kẻ khác nhìn vào có cảm giác ớn sợ.

 Ngược lại, một người có tâm địa hiền lương, thường nghĩ đến điều lành, họ có tâm lý thoải mãi thư giãn, các cơ bắp, nhất là các cơ vùng mặt không ở trong trạng thái co thắt, nên khuôn mặt họ thường đầy đặn, sắc mặt tươi tắn, nhìn tự nhiên ta có cảm tình. Đối với nữ giới, có thể họ không đẹp, nhưng vẫn ưa nhìn. Ta gọi là có duyên. Phụ nữ có duyên, mặt mũi phúc hậu, khi lập gia đình họ thường có cuộc sống bình lặng hạnh phúc, ít gặp trắc trở bất hạnh trong hôn nhân.

 Ngày nay khoa học tiến bộ, con ngườitham vọng làm chủ mọi thứ bằng khoa học. Khoa giải phẫu thẩm mỹ có thể sửa chữa một số khuyết tật trên thân thể con ngườiquả thật nó đã đạt được một số thành quả. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy những kết quả đạt được rất hạn chế. Những bộ phận thân thể được cắt xén, tỉa gọt, căng kéo không duy trì được hình dáng tự nhiênlâu dài. Nó thường để lại những di chứng và khi hết tác dụngtrở thành thảm họa như nhăn nhúm, chảy xệ, biến dạng…cho chủ nhân chúng. Điều này rất dễ nhận thấy.

 Trong khi đó, những người áp dụng phương pháp tu dưỡng nhằm sửa chữa cái phần tâm linh như thiền, yoga lại có thể đạt được kết quả khả quanlâu dài hơn nhiều. Người ta thấy có những phụ nữ ở tuổi thất tuần, nhưng cử chỉ vẫn linh hoạt, khuôn mặt vẫn gọn ghẽ xinh xắn mịn màng như tuổi 50. Đó là sự thật. Tuy nhiên, nhiều khi con người ta không đủ tin tưởngkiên nhẫn để thực hành. Hơn nữa sẵn tiền bạc, họ đi đến các thẩm mỹ viện cho nhanh và tiện.

 Trong văn hóa dân gian của Việt Nam cũng như một số các quốc gia Á châu khác, người ta có phong tục khi người phụ nữ mang thai, gia đình thường chọn những hình vẽ những đứa bé xinh đẹp bụ bẫm để treo trong phòng người mẹ. Nếu người mẹ thực sự không làm nghề gì xấu ác và có tâm địa hiền hậu, thường họ sẽ sinh được những đứa con đẹp đẽ gần giống trong tranh vẽ.

 Chính tâm lý (tâm) của người mẹ mang thai sẽ tạo thành hình tướng (tướng) đứa con qua những biến đổi bí mật trong từng tế bào của cơ thể họ.

 Người ta còn tránh không để cho thai phụ phải chứng kiến chuyện dữ, phải nghe những lời ác. Sự hiểu biết về tâm lý trong văn hóa Việt Nam như vậy không hề kém so với những kiến thức về tâm lý học hiện đại.

 Ngoài ra, trong dân gian còn có những hiện tượng đôi khi khó giải thích, nhưng qua chiêm nghiệm, người ta vẫn phải tin là có thật. Chẳng hạn như người làm nghề đồ tể giết heo nhiều năm thường có khuôn mặt phảng phất như mặt heo. Người ta cho rằng chính sự ám ảnh tâm lý trong một thời gian dài đã tạo ra những đường nét trên khuôn mặt người đồ tể. Những người chuyên làm thịt chó bán cũng thường mang bộ mặt hao hao giống loài vật họ giết. Rõ rệt nhất là những người làm nghề giết chó bán thịt đi đến đâu là chó sủa ran đến đó. Khi họ xuật hiện nhiều con chó bỗng nhiên sợ hãi quíu cả chân, đuôi cụp xuống, sủa không thành tiếng.

 Các vị chân tu đạo hạnh cao cả, công đức sâu dày, nhiều khi sống rất âm thầm, ẩn dật, không hề có quyền chức địa vị, họ ăn mặc đơn sơ giản dị, nhưng người phàm phu khi được diện kiến bỗng nẩy sinh lòng tôn kính, mến mộ. Dường như xung quanh họ tỏa ra một lớp sóng từ rất lạ khiến người khác cảm thấy an lạc, dễ chịu. Những người như vậy không nhất thiết phải là những chức sắc có địa vị cao trong các giáo hội. Có thể họ chỉ là một bà lão bình thường, như Mẹ Théresa chẳng hạn hay sư cụ ở một ngôi chùa hẻo lánh ít ai lui tới. Chuyện về các thánh tăng thì vô số. Nhưng trong đời sống ai may mắn mới có duyên được diện kiến một vị chân tu./.

 Thành Văn

 Aug., 2012

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5791)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7413)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6342)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5950)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4732)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5656)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5824)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6103)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6582)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5919)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7022)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6627)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4749)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4903)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7666)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9786)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7491)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5297)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6404)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5396)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5812)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6379)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5682)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6389)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7046)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6260)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10616)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6655)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6139)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6695)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6091)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6468)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5496)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8218)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5713)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7540)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6235)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9639)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4048)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6375)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4154)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4293)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4740)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5293)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5254)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5800)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6746)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5531)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4485)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5320)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 4959)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4346)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6852)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4585)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8389)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7196)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8348)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7464)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7551)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6087)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant