Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16. Hướng dẫn Phép Quy Y Tam BảoNgũ Giới

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7148)
16. Hướng dẫn Phép Quy Y Tam Bảo Và Ngũ Giới

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)


CHƯƠNG IV: QUY Y TAM BẢO (TISARAṆA)


HƯỚNG DẪN PHÉP QUY Y TAM BẢO NGŨ GIỚI

Phép quy y Tam Bảongũ giới có 3 cách:

Cách thứ nhất: Hoàn toàn bằng tiếng Pāi.
Cách thứ nhì
: Tiếng Pāi và có nghĩa tiếng Việt.
Cách thứ ba
: Hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.

1- Cách thứ nhất: Hoàn toàn bằng tiếng i

Sau khi tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ làm lễ sám hối Tam Bảo và xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi, tiếp theo vị Thầy hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới hoàn toàn bằng tiếng i như sau:

Ngài Đại Trưởng Lão truyền dạy rằng:

NTL (Ngài Trưởng Lão): Yamaha vadāmi, ta vadehi (vadetha).

Tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh thưa rằng:

CSN (người cận sự nam hoặc nữ): Āma! Bhante.

(A-má phăn-tê)

Lễ bái Đức Phật

Ngài Đại Trưởng Lão hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

NTL: Namo tassa Bhagavato Arahato sammāsambuddhassa (3 lần)

Tất cả người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh lặp lại theo Ngài.

CSN: Namo tassa Bhagavato Arahato sammāsambuddhassa (3 lần)
 (Ná-mô tắt-xá phá-gá-vóa-tô á-rá-há-tô xăm-ma-xăm-bút-thắt-xá)

Thọ phép quy y Tam Bảo

NTL: Buddha saraa gacchāmi.

CSN: Buddha saraa gacchāmi.
(Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Dhamma saraa gacchāmi.

CSN: Dhamma saraa gacchāmi.
(Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Sagha saraa gacchāmi.

CSN: Sagha saraa gacchāmi.
(Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí).

NTL: Dutiyampi Buddha saraa gacchāmi.

CSN: Dutiyampi Buddha saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Dutiyampi Dhamma saraa gacchāmi.

CSN: Dutiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Dutiyampi Sagha saraa gacchāmi.

CSN: Dutiyampi Sagha saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Tatiyampi Buddha saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Buddha saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Tatiyampi Dhamma saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Tatiyampi Sagha saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Sagha saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Tisaraagamana paripuṇṇa.

CSN: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

Thọ trì ngũ giới

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ giới:

NTL: ātipātā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: ātipātā veramaisikkhāpada samādiyāmi
(Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Adinnādānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Adinnādānā veramaisikkhāpada samādiyāmi
(Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Kāmesumicchācārā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Kāmesumicchācārā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Ca-mê-xú-mít-cha-cha-ra vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Musāvādā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Musāvādā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Mú-xa-voa-đa vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Xú-ra-mê-rá-giá-mắt-chắp-pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma- đí-gia-mí)

NTL: Tisaranena saha pañcasīla sādhuka katvā appamādena sampādetha.

CSN: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

NTL: Sīlena sugati yanti
Sīlena bhogasampadā
Sīlena nibbuti
yanti
Tasmā sīla
visodhaye.

CSN: Sādhu! Sādhu!
(Xa-thu ! Xa-thu!)

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi, tiếp theo cận sự nam, cận sự nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Buddho me saraa vara
(Bút-thô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Dhammo me saraa vara
(Thăm-mô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Sagho me saraa vara
(Xăng-khô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảongũ giới từng câu hoàn toàn bằng tiếng i.

Phép quy y Tam Bảo 3 câu cùng một lúc, hoàn toàn bằng tiếng i

Theo truyền thống của nước Myanmar (Miến Điện), Ngài Đại Trưởng Lão thường hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo 3 câu: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng cùng một lúc; và các cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh lặp lại cũng 3 câu cùng một lúc.

Sau khi tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ sám hốicầu nguyện xong, tiếp theo xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi; tiếp theo Ngài Đại Trưởng Lão sẽ truyền dạy rằng:

NTL: Yamaha vadāmi, ta vadehi (vadetha).

Tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh thưa rằng:

CSN: Āma! Bhante.
 (A-má phăn-tê)

Lễ bái Đức Phật

Ngài Đại Trưởng Lão hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

NTL: Namo tassa Bhagavato Arahato sammāsambuddhassa. (3 lần)

Tất cả người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh lặp lại theo Ngài.

CSN: Namo tassa Bhagavato Arahato sammāsambuddhassa (3 lần)
(Ná-mô tắt-xá phá-gá-vóa-tô á-rá-há-tô xăm-ma-xăm-bút-thắt-xá)

Thọ phép quy y Tam Bảo

NTL: Buddha saraa gacchāmi.
Dhamma
saraa gacchāmi.
Sa
gha saraa gacchāmi.

CSN: Buddha saraa gacchāmi.
(Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Dhamma saraa gacchāmi.
(Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Sagha saraa gacchāmi.
(Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí).

NTL: Dutiyampi Buddha saraa gacchāmi.
Dutiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
Dutiyampi Sa
gha saraa gacchāmi.

 CSN: Dutiyampi Buddha saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Dutiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Dutiyampi Sagha saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Tatiyampi Buddha saraa gacchāmi.
Tatiyampi Dhamma
saraa gacchāmi.
Tatiyampi Sa
gha saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Buddha saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Tatiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Tatiyampi Sagha saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Tisaraagamana paripuṇṇa.

CSN: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

Thọ trì ngũ giới

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ giới:

NTL: ātipātā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: ātipātā veramaisikkhāpada samādiyāmi
(Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Adinnādānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Adinnādānā veramaisikkhāpada samādiyāmi
(Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Kāmesumicchācārā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Kāmesumicchācārā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Ca-mê-xú-mít-cha-cha-ra vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Musāvādā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Musāvādā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Mú-xa-voa-đa vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Xú-ra-mê-rá-giá-mắt-chắp-pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma- đí-gia-mí)

NTL: Tisaranena saha pañcasīla sādhuka katvā appamādena sampādetha.

CSN: Āma! Bhante
(A-má phăn-tê)

NTL: Sīlena sugati yanti
Sīlena bhogasampadā
Sīlena nibbuti
yanti
Tasmā sīla
visodhaye.

CSN: Sādhu! Sādhu!
(Xa-thu ! Xa-thu!)

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi, tiếp theo cận sự nam, cận sự nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Buddho me saraa vara
(Bút-thô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Dhammo me saraa vara
(Thăm-mô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Sagho me saraa vara
(Xăng-khô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảongũ giới từng câu hoàn toàn bằng tiếng i.

2- Cách thứ nhì: Tiếng i có nghĩa tiếng Việt

Sám hối Tam Bảo

Bài kệ sám hối với Đức Phật Bảo

Uttamagena vande ha
(Ut-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)

Pādapasu varuttama
(Pa-đá-păng-xung vóa-rút-tá-măng)

Buddhe yo khalito doso
(Bút-thê dô khá-lí-tô đô-xô)

Buddho khamatu ta mama.
(Bút-thô khá-má-tú tăng má-măng).

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức Phật
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật Bảo,
Cúi xin Phật Bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy
)

Bài kệ sám hối với Đức Pháp Bảo

Uttamagena vande ha
(Ut-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)

Dhammañca duvidha vara
(Thăm-manh-chá đú-ví-thăng vóa-răng)

Dhamme yo khalito doso
(Thăm-mê dô khá-lí-tô đô-xô)

Dhammo khamatu ta mama.
(Thăm-mô khá-má-tú tăng má-măng).

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ
Hai hạng Pháp Bảo: pháp học và pháp hành
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp Bảo,
Cúi xin Pháp Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối với Đức Tăng Bảo

Uttamagena vande ha
(Ut-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)

Saghañca duvidhuttama
(Xăng-khăng-chá đú-ví-thút-tá-măng)

Saghe yo khalito doso
(Xăng-khê dô khá-lí-tô đô-xô)

Sagho khamatu ta mama.
(Xăng-khô khá-má-tú tăng má-măng).

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ
Hai bậc Tăng Bảo: Thánh Tăngphàm Tăng
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng Bảo,
Cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy
)

Bài kệ cầu nguyện

Iminā puññakammena
(Í-mí-na punh-nhá-kam-mê-ná)

Sabbe bhayā vinassantu
(Xặp-bê phá-gia wí-nát-xăn-tú)

Nibbāna adhigantu hi
(Níp-ba-năng á-thí-găn-tung-hí)

Sabbadukkhā pamuccāmi.
(Xặp-bá-đúc-kha pá-múc-cha-mí).

Nghĩa:

Do nhờ năng lực thiện tâm sám hối này
Cầu xin mọi tai họa hãy đều tiêu diệt
Mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả Niết Bàn
Con mong giải thoát mọi cảnh khổ tái sinh.

Xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới

Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam Bảobài kệ cầu nguyện xong, tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy y Tam Bảongũ giới như sau:

Aha Bhante, tisaraena saha, pañcasīla dhamma yācāmi
(á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há panh-chá-xi-lăng Thăm-măng gia-cha-mí)

 anuggaha katvā, sīla detha me, Bhante.
(á-núc-ghá-hăng cắt-toa xi-lăng đê-thá mê phăn-tê).

Dutiyampi, aha Bhante, tisaraena saha, pañcasīla dhamma yācāmi
(Đú-tí-giăm-pí á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há panh-chá-xi-lăng Thăm-măng gia-cha-mí

anuggaha katvā sīla detha me, Bhante.
(á-núc-ghá-hăng cắt-toa xi-lăng đê-thá mê phăn-tê).

Tatiyampi, aha Bhante, tisaraena saha, pañcasīla dhamma yācāmi
(Tá-tí-giăm-pí á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há panh-chá-xi-lăng Thăm-măng gia-cha-mí

anuggaha katvā sīla detha me, Bhante.
(á-núc-ghá-hăng cắt-toa xi-lăng đê-thá mê phăn-tê).

Nghĩa:

Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho con.

Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho con, lần thứ nhì.

Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho con, lần thứ ba.

Phép quy y Tam Bảongũ giới

Hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới bằng tiếng i có nghĩa tiếng Việt như sau:

Ngài Đại Trưởng Lão truyền dạy rằng:

NTL: Yamaha vadāmi, ta vadehi (vadetha).

Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con (các con) hãy nên lặp lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy”.

Tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh thưa rằng:

 CSN: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài.

Lễ bái Đức Phật

Ngài Đại Trưởng Lão hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

NTL: Namo tassa Bhagavato Arahato sammāsambuddhassa (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác (3 lần)

Tất cả người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh lặp lại theo Ngài.

CSN: Namo tassa Bhagavato Arahato sammāsambuddhassa (3 lần)
(Ná-mô tắt-xá phá-gá-vóa-tô á-rá-há-tô xăm-ma-xăm-bút-thắt-xá)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác (3 lần)

Thọ phép quy y Tam Bảo

NTL: Buddha saraa gacchāmi.

CSN: Buddha saraa gacchāmi.
(Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

NTL: Dhamma saraa gacchāmi.

CSN: Dhamma saraa gacchāmi.
(Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

NTL: Sagha saraa gacchāmi.

CSN: Sagha saraa gacchāmi.
(Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí).

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

NTL: Dutiyampi Buddha saraa gacchāmi.

CSN: Dutiyampi Buddha saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật,
lần thứ nhì.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật,
lần thứ nhì.

NTL: Dutiyampi Dhamma saraa gacchāmi.

CSN: Dutiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp,
lần thứ nhì.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp,
lần thứ nhì.

NTL: Dutiyampi Sagha saraa gacchāmi.

CSN: Dutiyampi Sagha saraa gacchāmi.
(Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

NTL: Tatiyampi Buddha saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Buddha saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

NTL: Tatiyampi Dhamma saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Dhamma saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

NTL: Tatiyampi Sagha saraa gacchāmi.

CSN: Tatiyampi Sagha saraa gacchāmi.
(Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

NTL: Tisaraagamana paripuṇṇa. Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!

CSN: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

Dạ, xin vâng. Bạch Ngài.

Thọ trì ngũ giới

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ giới:

NTL: ātipātā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: ātipātā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sanh.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sanh.

NTL: Adinnādānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Adinnādānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

NTL: Kāmesumicchācārā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Kāmesumicchācārā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Ca-mê-xú-mít-cha-cha-ra vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà dâm.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà dâm.

NTL: Musāvādā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Musāvādā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Mú-xa-voa-đa vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

NTL: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.

CSN: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaisikkhāpada samādiyāmi.
(Xú-ra-mê-rá-giá-mắt-chắp-pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma- đí-gia-mí)

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

NTL: Tisaranena saha pañcasīla sādhuka katvā appamāden sampādetha. Phép quy y Tam Bảongũ giới xong, rồi các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh.

CSN: Āma! Bhante.
(A-má phăn-tê)

Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài.

NTL: Sīlena sugati yanti

Sīlena bhogasampadā
Sīlena nibbuti
yanti
Tasmā sīla
visodhaye.

 Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới
Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới
Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới
Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!

CSN: Sādhu! Sādhu!
(Xa-thu ! Xa-thu!)

Lành thay! Lành thay!

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi, tiếp theo nên đọc bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Buddho me saraa vara
(Bút-thô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ
Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.
Do nhờ năng lực của lời chân thật này
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Dhammo me saraa vara
(Thăm-mô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ
Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.
Do nhờ năng lực của lời chân thật này
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Natthi me saraa añña
(Nắt-thí mê xá-rá-năng ăn-nhăng)

Sagho me saraa vara
(Xăng-khô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena
(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayama gala.
(Hô-tú mê chá-giá-măn ghá-lăng)

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ
Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.
Do nhờ năng lực của lời chân thật này
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảongũ giới bằng tiếng i có nghĩa tiếng Việt.

3- Cách thứ ba: Hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt

Hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.

Thật ra, điều quan trọng để thành tựu phép quy y Tam Bảocận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng.

Khi đọc câu quy y Phật, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Phật.

Khi đọc câu quy y Pháp, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 6 Ân đức Pháp.

Khi đọc câu quy y Tăng, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Tăng.

Do đó, dù bằng tiếng i hoặc nghĩa tiếng Việt cũng phải hiểu rõ đúng nghi lễ, biết cách thức thọ đúng theo phép quy y Tam Bảo, thì mới thành tựu được phép quy y Tam Bảo.

Nghi thức thọ phép quy y Tam Bảongũ giới bằng nghĩa tiếng Việt

Những người cận sự nam, cận sự nữ đảnh lễ Tam Bảo xong đều đồng thanh đọc bài sám hối Tam Bảo.

Sám hối Tam Bảo

Bài kệ sám hối Đức Phật Bảo

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức Phật
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật Bảo,
Cúi xin Phật Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối Đức Pháp Bảo

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ
Hai hạng Pháp Bảo: Pháp học và Pháp hành
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp Bảo,
Cúi xin Pháp Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ sám hối Đức Tăng Bảo

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ
Hai bậc Tăng Bảo: Thánh Tăngphàm Tăng
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng Bảo,
Cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)

Bài kệ cầu nguyện

Do nhờ năng lực thiện tâm sám hối này
Cầu xin mọi tai họa hãy đều tiêu diệt
Mong chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả Niết Bàn
Con mong sớm giải thoát mọi cảnh khổ sinh.

Sau khi đọc bài sám hối Tam Bảo xong, tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đều đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy y Tam Bảongũ giới như sau:

Xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới

Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho con.

Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho con, lần thứ nhì.

Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ trì phép quy y Tam Bảongũ giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho con, lần thứ ba.

Ngài Đại Trưởng Lão hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt như sau:

NTL: Này các con, Sư hướng dẫn từng câu như thế nào, thì các con hãy nên lặp lại đúng theo từng câu như thế ấy!

CSN: Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài.

Lễ bái Đức Phật

NTL: Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác (3 lần)

CSN: Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác

(3 lần)

Thọ phép quy y Tam Bảo

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

NTL: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

CSN: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

NTL: Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!

CSN: Dạ, xin vâng, kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão.

Thọ trì ngũ giới

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sanh.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sanh.

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà dâm.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự tà dâm.

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

NTL: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

CSN: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

NTL: Thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh.

CSN: Dạ xin vâng. Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão.

NTL: Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới
Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới
Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới
Vậy, các con giữ giới, cho được trong sạch!

CSN: Lành thay! Lành thay!

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong rồi, tiếp theo cận sự nam, cận sự nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm tăng đức tin cho càng thêm vững chắc như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảongũ giới, hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.

Thọ phép quy y Tam Bảongũ giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt, thì dễ dàng và phổ thông đến cho mọi người Việt Nam. Song không phổ thông đến cho những người cận sự nam, cận sự nữ từ các nước Phật giáo Theravāda trong một buổi lễ thuần túy Phật giáo.

Thọ phép quy y Tam Bảongũ giới (hoặc bát giới, hoặc cửu giới) hoàn toàn bằng tiếng i, đó là một trong những truyền thống từ xưa cho đến nay, được phổ thông đến cho tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ trong các nước Phật giáo Theravāda.

Trong một buổi lễ chung Phật giáo, gồm có các Phật tử từ những nước Phật giáo Theravāda đến tham dự; mặc dù mỗi nước có ngôn ngữ riêng của mình, khi Ngài Đại Trưởng Lão hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới bằng tiếng i, thì tất cả mọi người đều đồng thanh lặp lại theo Ngài đúng từng chữ từng câu, làm cho buổi lễ thật trang nghiêm, tạo nên bầu không khí hòa hợp thân mật giữa những người con Đức Phật, không còn phân biệt dân tộc. Bởi vì, tất cả mọi người Phật tử có chung một ngôn ngữ i, ngôn ngữ của Đức Phật Đấng Từ Phụ Tối Thượng.

Mọi người Phật tử có bổn phận học tiếng i để giữ gìn duy trì Phật giáo nguyên thủy. Bởi vì, Phật giáo là lời giáo huấn của Đức Phật, mà Đức Phật giáo huấn chúng sinh bằng tiếng i, không phải thứ tiếng nào khác. Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 năm, kể từ khi đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến lúc Đức Phật tịch diệt Niết Bàn đã 2.548 năm qua. Giáo pháp của Đức Phật đã kết tập thành Tam Tạng và các bộ Chú giải bằng tiếng i. Người Phật tử nào khả năng có trí nhớ, trí tuệ đặc biệt, học thuộc lòng Tam TạngChú giải i, thì vị ấy thật là đặc biệt, đáng tôn kính. Nếu không học thuộc lòng chánh pháp bằng tiếng i được nhiều, thì ít nhất cũng nên học thuộc lòng, hiểu biết rõ được những pháp bằng tiếng i như phép quy y Tam Bảongũ giới, hoặc bát giới, hoặc cửu giới... 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, những bài kinh tụng lễ bái Tam Bảo hằng ngày, những bài kinh Parittapāi... Để cho chính mình có nơi nương nhờ nơi Pháp học Phật giáo Nguyên thủy, làm duyên lành cho cả kiếp hiện tại lẫn vô lượng kiếp vị lai, đồng thời giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo... Chắc chắn đem lại sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa cao thượng, sự an lạc cao thượng cả trong kiếp hiện tại lẫn vô lượng kiếp vị lai, cho đến kiếp chót chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh quảNiết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12801)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26651)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13061)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27032)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32874)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31671)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32587)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13026)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12151)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17504)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18738)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12581)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11783)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13135)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12222)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12503)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11642)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11991)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10609)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10933)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28337)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11177)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13602)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11042)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11436)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10902)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11190)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26361)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12388)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14889)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11065)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20339)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12362)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10771)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23918)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11863)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12307)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12837)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11051)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38740)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10551)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12204)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17716)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25059)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10558)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10772)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12057)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11325)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11592)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14747)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21443)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9907)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11268)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27381)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11187)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11846)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11013)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14314)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant