Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn kết

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 7559)
Đoạn kết

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới


ĐOẠN KẾT

Tầm Quan Trọng Của Giới

Tích Ngài Đại đức Sīlava trong bộ Theragāthā(1), được tóm lược như sau:

Ngài Đại đức Sīlava vốn là Hoàng tử của Đức vua Bimbisāra trong kinh thành Rājagaha. Hoàng tử Ajātasattu giết Vua cha là Đức vua Bimbisāra rồi lên ngôi làm Vua. Đức vua Ajātasattu bày mưu kế giết Hoàng tử Sīlava, nhưng bằng mọi cách không thể giết chết được, bởi vì Hoàng tử là người có đầy đủ ba-la-mật, kiếp này là kiếp chót, chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Cho nên, không một ai có khả năng giết chết Hoàng tử Sīlava được.

Đức Thế Tôn suy xét thấy rõ biết rõ điều ấy nên Ngài truyền dạy Đại đức Mahāmoggallāna dùng thần thông đến giải cứu Hoàng tử Sīlava, đem Hoàng tử trở về hầu Ngài.

Hoàng tử Sīlava đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Hoàng tử. Ngồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp xong, Hoàng tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Sau khi trở thành Tỳ khưu không lâu, Đại đức Sīlava đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trú tại xứ Kosala. Đức vua Ajātasattu hay tin truyền lệnh một nhóm lính đến tìm giết Đại đức Sīlava.

Đại đức Sīlava thuyết pháp tế độ nhóm lính, sau khi lắng nghe pháp, tất cả đều phát sinh đức tin trong sạch, xin Đại đức Sīlava cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới, được tóm lược như sau:

─ Này các con, các con nên học và hành giới trong Phật giáo này. Giới mà người đã thực hành nghiêm túc rồi, trở thành thói quen tốt sẽ đem lại mọi sự thành tựu: Quả báu trong cõi người, trong cõi trờiđạt đến Niết Bàn.

Bậc thiện trí muốn được 3 điều an lạc:

Được tán dương ca tụng khắp mọi nơi

Tâm thường được an lạc

Được tái sinh lên cõi trời

Người ấy cần phải giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, là người có giới trong sạch, là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Người ấy có nhiều bạn tốt, bạn lành là bậc thiện trí.

Người phạm giới, tạo mọi ác nghiệp, làm cho bạn bè xa lánh. Người không có giới bị bậc thiện trí chê trách, tiếng xấu được lan truyền khắp mọi nơi.

Người có giới được bậc thiện trí tán dương ca tụng, tiếng tốt lành được lan truyền khắp mọi nơi.

Giới là gốc của mọi thiện pháp, là nền tảng để mọi thiện pháp được phát triển, là nơi phát sinh mọi thiện pháp, dẫn đầu mọi thiện pháp. Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Người thu thúc giới trong sạch thanh tịnh có thể ngăn cản được mọi hành động ác do thân, khẩu và ý, làm cho thiện tâm phát sinh hoan hỷ.

Giới là bến xuôi ra đại dương, là Niết Bàn của chư Phật Toàn Giác, chư Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác.

Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Giới có sức mạnh vô địch chiến thắng Ma VươngMa quân.

Giới là loại vũ khí vô song cực kỳ lợi hại diệt được phiền não loại thô.

Giới là đồ trang sức vô giá, là vật thơm làm tăng vẻ đẹp của thân và khẩu đáng kính, đáng yêu.

Trong mọi lúc, giới như chiếc áo giáp an toàn bảo vệ không để rơi trong 4 cõi ác giới.

Giới như chiếc cầu vượt qua khỏi 4 cõi ác giới, vượt qua khỏi 4 vùng nước xoáy, vượt qua khỏi tử sinh luân hồi.

Giới có oai lực rất phi thường.

Giới là thứ vật thơm kỳ diệu lan tỏa theo chiều gió, và ngược chiều gió, lan tỏa khắp 10 phương.

Giới là thứ vật thoa thơm cao quý nhất. Người có giới trong sạchtrọn vẹn, danh thơm tiếng tốt lan tỏa khắp 10 phương.

Giới còn là hành trang, vật dụng thiết yếu của khách lữ hành trong các cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời).

Giới là phương tiện vạn năng dẫn đến mục đích cứu cánh Niết Bàn.

Kẻ thiểu trí (si mê) không biết tôn trọng giới của mình, là người không có giới, luôn luôn bị chê trách trong kiếp hiện tại, sau khi chết, do ác nghiệp không giới cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Bậc thiện tríđức tin trong sạch, có trí tuệ sáng suốt biết tôn trọng giới của mình, giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn, thường được tán dương ca tụng trong kiếp hiện tại; sau khi chết, do nghiệp thiện có giới cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi trời), hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Giới là cao thượng. Bậc thiện trí có giới trong sạch, có trí tuệ sáng suốt, là người cao thượng trong đời.

Giới và trí tuệ thắng được phiền não trong cõi người, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, các cõi trời vô sắc giới.

Bởi vậy cho nên, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho pháp hành thiền địnhpháp hành thiền tuệ phát sinh và phát triển.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới như vậy.

Giới là cao thượng trong đời như thế nào?

Giới có 2 loại:

1- Lokiyasīla: Giới trong tam giới.

2- Lokuttarasīla: Giới trong Siêu tam giới.

Giới trong tam giới như thế nào?

Giới mà hành giả đã giữ gìn được trong sạchtrọn vẹn, rồi giới ấy sẽ cho quả báu trong cõi người6 cõi trời dục giới.

Khi giới của mình trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng cho pháp hành thiền định, hành giả thực hành đề mục thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, và các bậc thiền vô sắc.

Như vậy, giới này thuộc trong tam giới.

Giới trong Siêu tam giới như thế nào?

Hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến phát sinh trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn. Trong Thánh Đạo Tâm có đầy đủ 8 chánh đạo đồng sinh đó là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. 8 chánh đạo này được phân chia làm 3 phần:

Chánh kiếnchánh tư duy thuộc về phần tuệ

Chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới

Chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định thuộc về phần định

Khi chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng đồng sinh trong Thánh Đạo Tâm có đối tượng Niết Bàn. Như vậy, chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới trong tâm Siêu tam giới có đối tượng Niết Bàn.

Như vậy, giới mà hành giả giữ gìn trong sạchtrọn vẹn sẽ cho quả báu không chỉ trong tam giới mà còn đến Siêu tam giới nữa. Bởi vậy, mọi người nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn; giới ấy sẽ đem lại những thành tựu trong cõi người, trong cõi trờiđặc biệt làm nền tảng chứng ngộ Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, thường sau khi thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới xong, Ngài Đại Trưởng Lão đọc câu chúc lành rằng:

“Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti

Tasmā sīlaṃ visodhaye!”

“Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!”

Các cận sự nam, cận sự nữ đồng thành nói lên rằng:

“Sādhu! Sādhu!”

(Lành thay! Lành thay!)

Giới Là Nền Tảng

Giới là nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh, từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp (4 Thánh Đạo Tâm), cho nên có thể ví rằng:

- Giới trong sạch ví như đất màu mỡ.

- Định (thiền định) ví như cây ăn trái.

- Tuệ (thiền tuệ) ví như hoa và trái.

Nếu có đất màu mỡ thì cây ăn trái được mọc lên, nếu cây ăn trái mọc lên thì mới đơm hoa kết trái.

Cũng như vậy, nếu có giới trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng thì mới có thiền định phát sinh. Nếu có thiền định làm nền tảng thì mới có thiền tuệ phát sinh.

Trong bài kinh Kimatthiyasutta(1) Đức Phật trả lời những câu hỏi của Đại đức Ānanda về quả của giới, quả báu của giới, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

Ā(2): Kính bạch Đức Thế Tôn, giới thuộc thiện pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

ĐTT(3): “Này Ānanda, giới thuộc thiện pháp có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu”.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự hài lòng hoan hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an tịnh có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an lạc có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền định có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh quảNiết Bàn là quả, có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu.

Này Ānanda, giới thuộc pháp thiện có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu; sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu; sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu; pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu; pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu; pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu; pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu; pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán các pháp là quả báu; trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả báu; pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn là quả; có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu, như vậy.

Này Ānanda, giới thuộc về thiện phápquả báu theo tuần tự cho đến chứng đắc thành bậc Thánh Arahán hoàn toàn cao thượng, như vậy.

 (Xong bài kinh Kimatthiyasutta)

Quả Báu Của Giới

Bắt nguồn từ giới thuộc thiện pháp trong sạchtrọn vẹn dẫn đến những nhân quả liên hoàn từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp. Đức Phật thuyết giảng trong bài kinh Cetanākaraṇīyasutta(1) ý nghĩa như sau:

1- Này chư Tỳ khưu, người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự mát mẻ thân tâm phát sinh đến cho người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn. Đó là lẽ đương nhiên.

2- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm mát mẻ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho người có thân tâm mát mẻ. Đó là lẽ đương nhiên.

3- Này chư Tỳ khưu, người có tâm hài lòng hoan hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu cho pháp hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, pháp hỷ phát sinh đến cho người có tâm hài lòng hoan hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

4- Này chư Tỳ khưu, người có pháp hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin thân tâm của tôi được an tịnh”.

Này chư Tỳ khưu, thân tâm an tịnh phát sinh đến người có pháp hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

5- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm an tịnh, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi được an lạc”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an lạc phát sinh đến người có thân tâm an tịnh. Đó là lẽ đương nhiên.

6- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an lạc, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin tâm của tôi được an định”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an định phát sinh đến người có tâm an lạc. Đó là lẽ đương nhiên.

7- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an định, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp phát sinh đến người có tâm an định. Đó là lẽ đương nhiên.

8- Này chư Tỳ khưu, người trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp này phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

9- Này chư Tỳ khưu, người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo)”.

Này chư Tỳ khưu, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

10- Này chư Tỳ khưu, người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo), thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét”.

Này chư Tỳ khưu, pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) phát sinh đến người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo). Đó là lẽ đương nhiên.

Như vậy, này chư Tỳ khưu.

Pháp ly dục (Virāgo: Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Vimutta: Arahán Thánh Quả) và trí tuệ tri kiến suy xét là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an định trong các đối tượng danh pháp, sắc pháptrí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an lạc trong đối tượng có pháp an định là quả, là quả báu.

Thân tâm an tịnh trong đối tượng có pháp an lạc là quả, là quả báu.

Pháp hỷ trong đối tượng có thân tâm an tịnh là quả, là quả báu.

Tâm hài lòng hoan hỷ trong đối tượng có pháp hỷ là quả, là quả báu.

Thân tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ là quả, là quả báu.

Giới thiện pháp có thân tâm mát mẻ là quả, là quả báu.

Này chư Tỳ khưu, các pháp nhân dẫn đến các pháp quả báu liên hoàn với nhau, từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp tột đỉnh là Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

(Xong ý nghĩa bài kinh Cetanākaraṇīyasutta)

Như vậy, giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho các thiện pháp: Dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp đó là 4 Thánh Đạo và quả là 4 Thánh Quả, cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Thiền viện Viên Không, tháng Vesakha
P.L 2550/2006
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
 
 Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

 


[1] Bộ Theragātha, bài kệ của Ngài Đại Đức Sīlavatheragāthā

[1] Ang. Ekādasakanipāta, Kinh Kimatthiyasutta.

[2] Ā: Ngài Đại đức Ānanda

[3] ĐTT: Đức Thế Tôn

[1] Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Cetanākaraṇīyasutta.

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

**************************************

VinayapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

SuttantapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

Abhidhammapiṭaka Aṭṭhakathāpāḷi.

- Bộ Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại Trưởng Lão Anuruddha.

Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại Trưởng Lão Vicittasārābhivaṃsa (Tipiṭakadhara).

Toàn bộ sách giáo khoa “Paramatthajotika” của Ngài Đại Trưởng Lão Saddhammajotika.

- Các bộ sách của Ngài Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw.

v.v…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12803)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26652)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13061)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27033)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32874)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31673)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32588)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13029)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12152)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17506)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18738)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12583)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11783)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13135)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12223)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12505)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11642)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11991)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10610)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10933)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28338)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11178)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13602)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11042)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11438)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10902)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11191)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26361)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12388)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14889)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11068)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20340)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12363)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10772)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23922)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11864)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12307)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12837)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11054)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38744)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10551)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12206)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17717)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25060)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10559)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10773)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12057)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11328)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11592)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14748)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21443)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9909)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11268)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27382)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11187)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11847)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11013)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14315)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant