Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12131)
Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

TRUNG QUÁN TÔNG và ÁNH SÁNG TÂM LINH

Huỳnh Ngọc Chiến

Trong phần mở đầu chương 3 của tác phẩm The Grand Design (Bản thiết kế vĩ đại), nhà vật lý thiên tài Hawking đã nêu lên một vấn đề lý thú. Cách đây mấy năm, hội đồng thành phố Monza ở Italy đã cấm không cho những người thích nuôi vật cưng được nuôi giữ cá vàng trong những cái bể nước kính cong. Họ lý giải rằng điều đó thật là tàn nhẫn, vì nếu như thế, khi nhìn ra ngoài, con cá sẽ có cái nhìn sai lệch về thực tại. Thế rồi tác giả đặt câu hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng ta biết được rằng chúng ta đã có bức tranh chân thực, không hề sai lệch về thực tại?”(2). Câu hỏi đó là nỗi băn khoăn muôn thuở của con người.

Liệu cái thế giớichúng ta đang nhìn thấy đây phải chăng là cái thế giới y như thực? Đâu là khuôn mặt thực của thế giới? Đâu là chân tướng của vạn hữu? Bản nguyên của vũ trụ là Tâm hay Vật? Vấn đề này đã kéo theo cuộc tranh luận dài cả nghìn năm giữa các trường phái triết học, khi con người bắt đầu khai mở tâm thức để đối diện với thế giới chung quanh.

Tìm hiểu được chân diện mục của thế giới vẫn là nỗ lực không ngừng của con người. Suốt mấy ngàn năm qua, hàng trăm tông phái, học thuyết nối tiếp nhau ra đời trên khắp cõi Đông Tây kim cổ, với hàng ngàn các triết gia luôn khẳng định một bức tranh do mình đưa ra là hình ảnh chân thực duy nhất về thế giới. Và có bao nhiêu bức tranh “chân thực” là có bấy nhiêu sự xung độtmâu thuẫn giữa chúng! Sự xung đột giữa các kiến giải bất đồng về bức tranh thế giới vẫn kéo dài liên miên suốt mấy ngàn năm qua trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Giống như loài cá vàng nhìn thế giới qua tấm kính cong và “xác lập” nên những quy luật vận động phù hợp với thế giới đó; cũng vậy, con người đã dùng biết bao mô thức tư duy (thought-pattern) để cố xác lập chân diện mục của thực tướng theo cách nhìn của mình; áp đặt mọi thứ phạm trù Nhân và Quả, Động và Tĩnh, Dạng thức và Bản thể, Đồng và Dị, Nhất và Đa v.v... lên Thực tướng khiến Thực tướng đã bị che mờ dưới mạng lưới lạnh lùng của tư duy.

Mọi con đường của lý tính đều dẫn đến bế tắc, khi cố vươn đến chân diện mục của Thực tướng, do chính bản chất xung đột của lý tính (conflict of Reason). Hai bài toán “ngụy biện” đơn giản của Zeno(3) vẫn lơ lửng ở đấy như một thách thức điển hình cho mọi hệ thống lý luận của con người, để con người tỉnh ngộ hiểu ra rằng những mô thức tư duy mà mình áp đặt lên thực tại đều sai lệch, vì cứ muốn dùng Tục đế (savti) để thể ngộ Chân đế (parāmartha) bằng phương pháp suy diễn theo kiểu lý luận học phương Tây.

Khi nào con người chưa liễu ngộ được bản chất xung đột của lý tính, vẫn còn hoang tưởng rằng có thể dùng lý luận để phát lộ “chân diện mục của Lô sơn” thì Achille vẫn suốt đời không đuổi kịp chú rùa, và mũi tên vĩnh viễn không bao giờ bay đến đích, vì giữa lý tínhthực tướng có một hố thẳm không thể vượt qua, khi ta áp đặt nó thành một cấu trúc tư duy (Thought-Construction) được hình thành do tác động của Vô minh.

Cùng với sự chiến thắng vượt trội không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu châu trên phạm vi toàn cầu, nếp suy tư theo kiểu phương Tây hầu như đã chi phối toàn bộ não trạng của chúng ta, hầu như đã giam hãm toàn thế giới trong mạng lưới tư duy duy lý, khiến không ít bậc thức giả hầu như tin tuyệt đối vào sự thống trị của lý trí Âu châu một cách hoàn toàn mù quáng. Đó là hiểm họa mà triết gia Heidegger đã cảnh báo là “tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu(4).

Triết học Ðông phương, đặc biệtPhật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lý tính. Người ta không tin rằng lý tính có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tích tổng hợp hay tích lũy kiến thức của nó. Bởi vì điều đó chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa, nếu không có được một đầu mối nhất dĩ quán thấu suốt tất cả để thành Nhất thể viên dung.

Phản bác mọi phạm trù tư duy và tất cả các kiến giải không có nghĩa là phản bác chức năng của lý tính mà chỉ có nghĩa là phản bác năng lực của lý tính trong vấn đề liễu tri được Thực tướng. Cái Thực hữu [Real] vốn bất khả tư nghì, siêu việt cảnh giới của tư tưởng; nó là phi nhị nguyên, là Không (śūnya), siêu quá nhị nguyên tính đối đãi giữa Hữu và Vô.

Nhận thức được sự xung đột của lý tínhnỗ lực giải quyết xung đột đó bằng cách nâng nó lên một bình diện cao hơn lý tính, đó là lưỡi Tuyệt đao của Trung quán tông. Trung quán tông đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề, tức sự xung đột của lý tính, theo kiểu đơn đao trực nhập, luận phá mọi mô thức khái niệm, xem chúng đều rỗng không (śūnya), và giới hạn chúng vào trong phạm vi tục đế.

Từ gần hai ngàn năm qua, kể từ khi xuất hiện trên đỉnh cao chót vót giữa phương trời tư tưởng lồng lộng của Ấn Độ, lưỡi Tuyệt đao của đại luận sư Nāgārjuna đã quét sạch những kiến giải hư ngụy trong não trạng loài người, gây nên một cơn chấn động vô tiền khoáng hậu trong toàn cõi đạo giáo phương Đông bằng tánh Không (Śūnyatā) gây kinh hãi. Tánh Không Trung quán tông phá hủy mọi lập trường, mọi kiến giải, quét sạch toàn bộ thế giới vật lýtâm lý với Lục căn, Lục trần, Lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đếThập nhị nhân duyên - nền tảng của tư tưởng Phật giáo - trong cơn cuồng phong phủ định toàn triệt của các chữ Bất, Phi, Vô; giống như Độc cô cửu kiếm dùng vô chiêu để tận phá mọi kiếm pháp hữu chiêu trong thiên hạ. Chiêu thức của Độc cô cửu kiếm là vô chiêu, không đánh theo một chiêu thức nào chỉ mà đánh vào chỗ sơ hở của kiếm pháp đối phương để phá giải; cũng giống như kiến giải của Trung quán tôngKhông chư kiến (śūnyatā of dṛṣṭi : 空 諸 見) tức xem mọi kiến giải đều là Không (śūnya); đó là kiến giải phi kiến giải, lập trường phi lập trường, quan điểm phi quan điểm. Trung quán tông, do đó, luận phá mọi kiến giải của đối phương bằng cách phát lộ cho đối phương thấy những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại trong mọi thể cách lập luận của họ, nhưng lại không hề đưa ra một kiến giải mới, vì kiến giải mới, nếu có, cũng là Không nốt; nếu khác đi thì kiến giải mới đó cũng sẽ chứa những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại, nên nó sẽ tiếp tục bị luận phá, rồi sự luận phá mới đó lại dẫn đến một kiến giải mới khác nữa; điều đó sẽ dẫn đến sự hồi quy vô tận [regress ad infinitum]. Đối với Trung quán tông, bản thân sự luận phá mọi kiến giải tự nó đã là một kiến giải, cũng như đường kiếm vô chiêu tự nó đã hình thành một chiêu thức. Đó là ý nghĩa của hai chữ “phê phán” (criticism) mà tác giả Murti dùng trong suốt tác phẩm, trong nỗ lực muốn dìu những độc giả quen thuộc với tư tưởngphê phán” của Kant và biện chứng pháp của Hegel, đặc biệt là Kant, tiếp cận được thông lộ dẫn về cội nguồn của Bát bất Trung đạo của Trung quán tông, đồng thời vạch ra những suy tư hời hợt của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi đồng nhất triết học về Tánh Không của Trung quán tông với hư vô luận [nihilism] một cách thiển cận và hời hợt.

Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã) hay Trực giác Vô nội dung [contentless Intuition]. Đó là Bất nhị trí hay Vô phân biệt trí. Nội dung của Trực giác Vô nội dung là Cảnh giới tuyệt đối hay Toàn thể thực tướng, chứ không phải là một đối tượng cụ thể bất kỳ nào. Khi mọi kiến giải theo mô thức tư duy bị quét sạch khỏi tâm trí, khi tâm không còn chướng ngại thì nó sẽ hoàn toàn trong suốt. Trong cảnh giới đó, Tâm và Thực tướng viên dung hòa hợp, bất khả phân ly trong Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - một cảnh giới hoàn toàn tương phản với quan niệm hiện đại xem triết học là một khoa học phổ quát, dung hợp được nhiều ngành khoa học khác nhau vào một hệ thống mạch lạc.

Trong pháp môn Lục độ, Prajña (trí Bát-nhã) phải đi cùng với bố thí (dāna), trì giới (śīla), nhẫn nhục (kānti), tinh tấn (vīrya), thiền định (dhyāna) mới có thể giúp tâm thanh tịnh để thể ngộ chân lý. Rồi đến lượt đó, Prajña lại giúp cho các pāramitā kia được hoàn thiện, tựu thành vô lượng điều toàn mỹ, khiến cho mỗi pāramitā được là pāramitā - hay sự toàn mãn. Chỉ có Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - tức một loại Chân trí bằng trực giác phi khái niệm - mới có thể là loại thuốc đối trị hữu hiệu mọi vọng tưởng phân biệt vọng tưởng (vikalpa) của lý trí con người.

Prajñāpāramitā là chỗ kết tinh của mọi lý luận trong thiên hạ, còn tánh Không làm tiêu dung tất cả các kiến giải cổ kim. Mô phỏng theo Ngọa Long Sinh(5) ta có thể nói “Trước Thiên kiếm Prajñāpāramitā, lý luận không còn tuyệt học; dưới Tuyệt đao Śūnyatā, kiến giải không có sinh cơ.”! Đẩy lý trí con người vào tuyệt lộ bằng pháp môn quy mậu chứng pháp (prasanga) hay phương pháp quy kết bội lý (reductio ad absurdum), đưa tất cả mọi biện giải đến chỗ bế tắc, buộc tất cả các luận sư uyên bác phải đối diện với sự sụp đổ tan tành của mọi hệ thống lý luận, của mọi nền triết học do những mâu thuẫn xung đột nội tại, để thấy được rằng mọi điện đài duy lý đồ sộ của họ đều là những công trình xây trên cát; đó là Tuyệt đao. Nhưng phủ định toàn triệt theo tinh thần Prajña là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối; trong cảnh giới thù thắng đó thì khẳng định là phủ định, và phủ định là khẳng định, để đưa tâm thức con người đến cảnh giới giải thoát tối hậu, đó là Thiên kiếm. Tuyệt đao thì phá hủy mọi kiến giải theo thể cách của Trí tuệ, còn Thiên kiếm thì từ bi hóa độ theo thể điệu của Bi tâm. Cả kiếm lẫn đao đều vạch ra một thông lộ cho hành giả tìm về cõi đạo uyên nguyên trong sự im lặng của Đức Phật- sự im lặng bao trùm tất cả những chân trời tư tưởng của nhân loại. Trong Tuyệt đao đã hàm ẩn Thiên kiếm, và trong Thiên kiếm vẫn thấp thoáng Tuyệt đao. Và tại chỗ chót vót sơ đầu, cả Thiên kiếm và Tuyệt đao đều hợp nhất thành cái một tuyệt đối, viên dung nhất thể trong phương trời lồng lộng của cõi viên mãn Như Lai.

T.R.V Murti được xem là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất về triết học Ấn Độ trong thế kỷ XX. Ông đã phân tích và đánh giá cặn kẽ giáo lý Trung quán tông qua cái nhìn thông tuệ của một bậc thức giả phương Tây đầy uy tín, một người được giới học giả xem là người có đầy đủ thẩm quyền về kinh điển Ấn Độ mà ông hầu như thuộc lòng, như kinh điển Phật giáo, kinh văn Upanisads, văn phạm của Panini, cùng nhiều kinh văn quan trọng khác…

T.R.V Murti là một bậc thức giả phương Tây, nhưng tâm hồn ông lại được nuôi dưỡng trong không khí tâm linh phương Đông, nên đọc ông, ta có cảm giác gần gũi như một bậc luận sư phương Đông đã thấu hiểu tận ngọn ngành của triết học phương Tây, liễu tri được toàn bộ sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy theo kiểu Âu châu. Một người được nuôi dưỡng trong bầu không khí triết học phương Tây lại mạnh dạn khẳng định : “Biện chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị về phương diện tâm linh”(6). để kêu gọi thế giới quay về đời sống tâm linh phương Đông, đặc biệtTuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo, xem như đó là lối thoát cuối cùngduy nhất cho toàn thế giới. Cũng như Heidegger, ông ý thức sâu sắc sự tàn phá khốc liệt của nền văn minh phương Tây đối với tư tưởng nhân loại. Toàn thể nhân loại đang khát khao mong đợi sự hợp nhất tâm linh cho một thế giới đang bị xâu xé tan nát bởi biết bao sự xung đột, bởi những hệ tư tưởng hiếu chiến đang đe dọa nhận chìm toàn thể thế giới vào sự diệt vong. Những phát minh khoa học, đặc biệt là mạng internet với những chiếc máy tính đã tạo thành một hệ thống tinh xảo để nối kết toàn cầu vào trong mạng lưới khổng lồ của những siêu xa lộ thông tin. Không gian dường như đã dần thu hẹp lại, thế giới dường như đã có thể dần sát kề vai nhau, thế nhưng sự khác biệt và xung khắc giữa con người, giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc lại gia tăng một cách khủng khiếp; đấu tranh và thống khổ vẫn ngập tràn trên cõi thế. Chiến tranh đã trở thành căn bệnh kinh niên lan rộng trên phạm vi toàn cầu.

Sau khi trình bày sự hỗn loạn và đổ vỡ tràn lan trên cõi thế, Murti mạnh dạn kết luận:

“Căn nguyên nào có gì là bí ẩn đâu. Nền văn minh phương Tây, kể từ thời phục hưng, đã phát triển mạnh mẽ theo lộ tuyến duy vật (materialistic lines) và trở thành quy phạm cho toàn thế giới… Con người đã chinh phục được thiên nhiên hoặc gần như đã làm được điều đó, nhưng lại không làm chủ được bản thân mình. Hậu quả thật là thảm khốc. Cuộc sống được tổ chức tưởng chừng ổn định và an toàn đã trở nên bấp bênh, bất ổn. Chúng ta giành được cả thế giới nhưng lại đánh mất linh hồn(7).

Mọi chủ trương tăng gia số lượng sản phẩm và tổ chức lại cơ cấu xã hội để đem đến bình yên cho thế giới đều thất bại, khi những nỗ lực đó không có một nền tảng tâm linh. Mọi sự đối thoại giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc đều bế tắc không thể dẫn đến cảm thông, khi con người chỉ có thể nhìn nhau như loài cá vàng nhìn thế giới qua bể kính nước cong. Chỉ có tâm linh mới đem đến một nền tảng thực sự cho xã hội, và hướng dẫn con người thực hiện được những giá trị khác. Về phương diện này thì Tuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo với tư tưởng Prajñāpāramitā thù thắngTánh Không (Śūnyatā) thâm diệu sẽ là “nền tảng cho sự phục sinh tâm linh cho thế giới” (back-ground for the spiritual regeneration of the world)(8), như Murti, và cả loài người, đang mong đợi

 Chú thích

(1) Cảm nhận của người viết sau khi đọc tác phẩm “The Central Philosophy of Budshism” của T.V. Murti.

(2) “But how do we know we have the true, undistorted picture of reality?” (Hawking, The Grand Design, Bantam Books, New York, 2010, p. 50.)

(3) Nghịch lý Achille và con rùa: là nghịch lý nổi tiếng của Zeno. Achille là một dũng sĩ Hy Lạp có tài chạy nhanh. Achille và Rùa cùng chạy thi. Giả sử rùa đứng trước Achilles 100 mét, và tốc độ của Achille gấp 100 lần rùa. Khi Achilles chạy được khoảng cách 100 mét, đến vị trí xuất phát của rùa, thì rùa đi được 1m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 1m đó thì rùa lại đi được 10-2m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 10-2m đó thì rùa lại đi được 10-4 m v.v... Cứ tiếp tục mãi như vậy, khoảng cách giữa Achille và rùa sẽ tiến đến con số cực vi dạng 10-2n, nhưng không bao giờ bằng 0. Do đó, dũng sĩ Achilles không bao giờ đuổi kịp chú rùa!

Nghịch lý mũi tên bay: Ta bắn 1 mũi tên từ vị trí A đến tấm bia ở vị trí B. Mũi tên muốn đến được B thì phải đi qua trung điểm A1 của AB, muốn đến được A1 thì phải qua trung điểm A2 của AA1, muốn đến được A2 thì phải qua trung điểm A3 của AA2 v.v... Cứ tiếp tục như vậy, mũi tên phải lần lượt qua vô hạn các trung điểm của các đoạn thẳng chia nhỏ, do đó mũi tên không bao giờ đến được đích!

(4) “Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn như thế nào. Dường như tiến trình đó khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.” (Die Verblendung wächst, so daß man auch nicht mehr zu sehen vermag, wie die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt. Es scheint, als sollten diese versiegen. (Heidegger, Unterwegs zur Sprache, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1985, tr. 99).

(5) Lời của Thiên hạ đệ nhất đao Hướng Ngao phẩm bình kiếm pháp của Thiên hạ đệ nhất kiếm Cơ Đồng: 姬 老 兒 劍 下 無 絕 學 , 老 夫 的 刀 下無 生 機 Cơ lão nhi kiếm hạ vô tuyệt học, lão phu đích đao hạ vô sinh. (Dưới kiếm Cơ Đồng không còn tuyệt học, dưới đao lão phu không có sinh cơ - Thiên kiếm tuyệt đao 天 劍 絕 刀, chương 4). Một bên là Thiên kiếm theo nguyên lý Sinh, đem bi tâm trùm lên kiếm pháp để hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ. Một bên là Tuyệt đao theo nguyên lý Diệt, đem sát tâm hóa vào đao pháp để tận diệt mọi đối thủ trên đời. Làm thế nào để đem được sát tâm của Tuyệt đao hòa vào Thiên kiếm, cũng như làm thế nào để hòa được bi tâm của Thiên kiếm vào sát khí của Tuyệt đao? Với tác phẩm Thiên kiếm Tuyệt đao, Ngọa Long Sinh đã lặng lẽ mở ra một chân trời huyền ẩn cho tư tưởng để tựu thành những điều bất khả tư nghì cho cõi đạo Sơ Thủy Đông Phương.

(6) “The dialectic of Hegel is a brilliant superfluity, it had no spiritual value” T.V.Murti, The Central Philosophy of Buddhism,  Goerge Allen and Unwin, 1968, p. 305.

(7) “The causes are not hidden. Western civilization, which has become the norm for all, has developed, since the Renaissance, along materialistic lines. …. Man has conquered Nature or is very near doing that; but he has not the rudimentary control over himself. The consequences are disastrous. Organised life with any pretence to stability and security has become precarious. We have gained the world, but have lost our soul.” (Op. cit. p. 338)

(8) Op. cit. p. 341.


Huỳnh Ngọc Chiến

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7800)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7843)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8961)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26132)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13815)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27978)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19856)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7778)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7617)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7481)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8034)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9748)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22740)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16928)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8550)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10406)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10581)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11275)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9895)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10572)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12707)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8802)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19870)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20831)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21385)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13442)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10573)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9544)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26762)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10744)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 30899)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14136)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11140)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11093)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11243)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11637)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12742)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24053)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14915)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11647)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20263)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10611)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10388)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12286)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11502)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14302)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11955)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24622)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12352)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22285)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12569)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12723)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12638)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16817)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13750)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13037)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13496)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12575)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14495)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38467)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant