Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Khám Phá Đạo Phật Của Người Tây Phương

08 Tháng Tư 201300:00(Xem: 7622)
Sự Khám Phá Đạo Phật Của Người Tây Phương

Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú. Thật vậy, suốt thời gian dài, người Âu châu không có ý niệm về sự có mặt của đạo Phật. Trí thức Âu châu, từ các học giả Hy Lạp cổ thời, đến những giáo sĩ các dòng thừa sai cận đại, cả các quan cai trị và các nhà nghiên cứu thời Ánh sáng, khi khảo sát về tín ngưỡng của người châu Á, chỉ nói đến những nghi thức manh mún tản mác, sự sùng bái ngẫu tượng của các giáo phái bí ẩn, chứ không lĩnh hội được một hợp nhất thể nào có tính hệ thống, trong giáo thuyết và trong thực hành, để có thể gọi đó là một tôn giáo.

I. Sự khám phá đạo Phật

Khi người Anh, người Hà-lan, người Pháp lần lần đến Ấn-độ vào thế kỷ 17 và 18, họ đã không gặp một đệ tử nào của Đức Phật, mà chỉ thấy những đền thờ vắng vẻ điêu tàn. Vì đạo Phật, tuy được ra đời tại Ấn Độ, đã phát triển và phổ biến ở đó ít nhất suốt từ thế kỷ thứ 5 trước Ki-tô đến thế kỷ 10 TL., đã biến mất trong khoảng thế kỷ 11 hay 12 bởi những lý do đến nay vẫn chưa có trả lời thỏa đáng. Những người Âu châu đầu tiên biết chữ Phạn có thể vào thẳng các bản văn nguyên gốc Bà-la-môn giáo. Nhưng với Phật giáo, họ phải gây dựng lại từng bước, từ những dấu tích tản mác, manh mún, những dữ kiện thu thập được một cách rời rạc; vì những bản kinh Phật giáo đã biến mất từ lâu trên đất Ấn Độ; chỉ nơi các sườn núi Hi-mã, nhất là ở Nepal, còn giữ vài bản kinh Phật giáo chữ Phạn; nhiều bản khác chỉ còn lại trong những bản dịch tiếng Tây Tạng hay tiếng Trung Hoa.

Thêm nữa, suốt nhiều thế kỷ, đạo Phật đã trương ra khắp Á châu, không bao giờ đồng dạng và hợp nhất. Ngay trong hai nhánh chính, Đại thừaTiểu thừa, cũng đã hiện hữu từ rất sớm nhiều học phái đối chất nhau trong những diễn giải khác nhau về giáo thuyết của Phật. Sự đa dạng này còn kết hợp với những tôn giáo hay đức tin hiện hữu từ trước tại các vùng mà Phật giáo đã tuần tự bám rễ: Tiểu thừa ở Sri Lanka, Miến Điện, Lào… không giống nhau; Đại thừaTrung Quốc (từ khoảng thế kỷ thứ 1), ở Nhật Bản (thế kỷ thứ 6), ở Tây Tạng (thế kỷ thứ 8), ở Mông Cổ (thế kỷ 12), v.v…, cũng vậy.

Mãi đến khoảng năm 1800, tri thức Âu châu về đạo Phật vẫn ở dạng đầy phán xét cảm tính dựa theo văn minh Hy Lạp và Thiên Chúa giáo. Từ vựng để chỉ Đức Phật vẫn cứ tùy tác giả: Buddou, Bouddou, Bodh, Budh; liên hệ giữa những ‘Bút’ đó với Sammonacodom (Thái Lan), với Xắc-Ca (Nhật Bản hay với Fô (Trung Quốc) cũng chưa được thấy. Khúc quanh trọng đại trong lịch sử người Tây phương khám phá đạo Phật được đánh dấu bởi sự ra đời của từ bouddhaisme, buddhaism, buddhaismus (= ‘giáo thuyết của Bụt’), sau đổi thành ‘bouddhisme – buddhism – buddhismus’ (= ‘giáo thuyết giác ngộ’) vào thập niên 1820.

Sự vắng mặt của từ vựng tương ứng với sự vắng mặt của đối tượng; vì chẳng ai phải đặt ra một từ vựng mới cho một đối tượng không được biết. Trước khi nhận được một tên gọi, ‘đạo Phật’ chưa hiện hữu; và sự khai sinh ra tên gọi đánh dấu sự thành hình một đối tượng của tri thức. Thật vậy, phải đến quanh thời điểm của năm 1820, mới có các nỗ lực kết tập trí thức, nhằm xác định thế nào là ‘đạo của Phật’, xuất phát từ khả năng ngôn ngữ của các nhà nghiên cứu Đông phương học: dù đã có một số người Âu châu đọc được chữ Phạn từ thập niên 1780, nhưng các bản văn Phật giáo bằng chữ Phạn chỉ được khám phá ở Nepal, bởi B.H. Hodgson, vào thập niên 1820; cùng thời này, chỉ có E. Burnouf và C. Lassen đọc được chữ Pàli, và những bản kinh Phật giáo tiếng Trung Quốc chỉ mới được nghiên cứu bởi JP. Abel-Rémusat; và sau đó ít lâu, chữ Tây Tạng được bắt đầu biết đến bởi một người gốc Hungary là Alexandre Csoma de Koros.

Một số nỗ lực kết tập đầu tiên được đưa ra và đã chịu nhiều bàn cãi. Nhưng, rất nhanh sau đó, trí thức Âu châu đã nhận biết được sự hiện hữu của một giáo thuyết đặc biệt, nằm giữa tôn giáotriết học, có một tiêu đề và một lịch sử riêng. Đối tượng của tri thức đã có mặt, và tên gọi cho ‘đạo của Phật’ được đặt ra và phổ biến. Hầu hết các bản kinh nền tảng của Phật giáo đã được dịch sang các tiếng Âu châu trong hậu bán thế kỷ 19. Và, sau một thời gian khá dài bị hiểu lầm, Phật giáo đã được những đầu óc khoa học sáng giá nhất thế giới đánh giá lại. Đến khoảng thập niên 1950, đạo Phật đã được nghiên cứu rộng rãi tại nhiều học viện uy tín nhất ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhiều công trình nghiên cứu giá trị về đạo Phật được phổ biến đại chúng, lôi cuốn số người đến với đạo Phật tại các xã hội kỹ nghệ tiên tiến ngày càng đông.

Sự khám phá đạo Phật của người Tây phương còn là công trình so sánh, phân loại những chứng liệu về đạo Phật từ khắp nơi gom về; rồi từ sự gạn lọc để tách rời những nghi thức hành lễ vốn là những chất liệu có tính văn hóa địa phương đã được gán ghép vào tạo nên những hình thức Phật giáo bề ngoài của từng dân tộc, trí giả Âu châu đã thiết lập lại gần như trọn vẹn các giáo thuyết, những phương pháp, cùng quá trình phát triển của đạo Phật. Một số phương pháp tu tập được sử dụng trong quá khứ được soát xét lại, cùng với nhiều kiến giải mới, theo kiểu tư duy quen thuộc của tinh thần khoa học hiện đại; nhưng hầu hết đều nghiêng nhiều về phần triết lý, trí thức. Và những đặc tính thế giancon người, trong tư tưởng cốt lõi của đạo Phật, cũng đang được nghiên cứu ứng dụng vào những định chế nhân văn và xã hội. Phần tu tập chỉ mới được bắt đầu phát triển từ khoảng cuối thập niên 1970.

Ngắn gọn, một ‘Phật giáo Tây phương’ đang thành hình, dưới dạng một ‘Phật giáo trí thức’ – có thể gọi là ‘Phật giáo khoa học’; chắc chắn nó sẽ bổ túc nhiều cho ‘Phật giáo hướng thiện’ (cầu phước, có tính luân lý, thuộc ‘hiện tượng giới’) và ‘Phật giáo hướng tuệ’ (nhằm đạt ‘trí tuệ siêu vượt, Chân lý, thuộc ‘chân thật giới’), đã phát triển trong lịch sử; và chắc chắn sự kết hợp cả ba loại Phật giáo này tạo thành đặc điểm của Phật giáo thời đại: với ‘Phật giáo khoa học’ là gạch nối giữa hai loại Phật giáo kia, tiến tới việc thành hình một ‘hệ thống đạo lý phi thần học’ lại có chức năng đôi: cải thiện tính người và song hành với khoa học, đưa Phật giáo thể nhập với nhân sinh toàn cầu, qua Nghị quyết ngày 15-12-1999 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc: lấy ngày Phật đản sanh hàng năm làm ngày hòa bình của nhân loại.

II. Từ hy vọng đến khiếp sợ

Vào cuối thế kỷ 18, nghiên cứu về văn minh Ấn Độ và chữ Phạn bắt đầu thành một chuyên ngành, với đối tượng và các phương pháp riêng. Đến đầu thế kỷ 19, các học hiệu của người Anh, Pháp và Đức – ở Calcutta, ở Paris, ở Bonn, và ở Berlin (Đức), bắt đầu tiếp cận dần với một lãnh vực rộng lớn, chưa được biết đến. Từ đó, từng bước và khá nhanh, những ngông cuồng của thị hiếu ngữ nguyên học, hay những mơ mộng chuộng điều mới lạ từ xa đến, nhường chỗ cho những tri thức chính xác và những chuyển dịch thận trọng nghiêm ngặt.

Khi đọc các bản dịch đầu tiên từ chữ Phạn, Âu châu của phái lãng mạn, đặc biệt là ở Đức, tin là đã tìm thấy trong Bà-la-môn giáo ánh sáng cho những lo lắng của họ. Những anh hùng ca, kịch bản, thơ phú Ấn Độ, cùng các tác phẩm của những «triết gia sông Hằng», tạo nên sự chờ đợi một cuộc phục hưng mới. Nhiều tác giả rất khác nhau như: Schlegel, Schelling, Schopenhauer, Leroux v.v. cho rằng tư tưởng Âu châu sẽ được tái sinh, với các tác phẩm Phạn ngữ, tựa như lần Phục hưng trước, với các tác phẩm Hy Lạp được những người theo chủ nghĩa nhân bản tìm thấy lại. Tong một thời gian khá dài, nhiều người tin rằng sự «Phục hưng Đông phương» (chữ của họ), bởi âm vang đa diện của nó, sẽ phải rộng lớn và sâu sắc hơn lần Phục hưng Âu châu ở thế kỷ 15 và 16. Cái quá khứ đang mở ra, thật vậy, còn xa xưa hơn những gốc nguồn Hy Lạp. Hầu hết mọi quan điểm đều tin rằng, từ chỗ trở về với gốc nguồn Aryan nguyên thủy nhất này, có thể sáng tạo ra một tương lai mới, hoàn toàn khác với hiện tại – nguồn cội và tương lai tương ứng nhau nhưng không giống nhau - và những rối loạn trước mắt chỉ là đoạn cuối của một dấu ngoặc dài sắp sửa khép lại.

Họ hy vọng nơi Ấn Độ, mà Herder (triết gia Đức thế kỷ 18) xem là «cái nôi của nhân loại», một sự cứu rỗi của ngày mai. Sự khám phá Bà-la-môn giáo, qua các công trình được dịch từ chữ Phạn, chẳng những đã kích thích óc tò mò mà còn gây nên sự ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Cái Ấn Độ vừa mới biết đến tức thì được ước mơ, đầy suy tưởng và thi vị hóa, như quê hương gốc của sự toàn hảo, trật tự, vượt trên mọi thối rữa lịch sử, và tồn tại như năng lực lớn duy nhất có thể làm sống lại tinh thần, cả thể xác, của Âu châu. Như, trong thư đề ngày 18-12-1806, cho Windischmann, Schelling viết: «Tôi cho rằng việc khôi phục sự hợp nhất Đông-Tây là vấn đề lớn nhất cho giải đáptinh thần thế giới đang tìm kiếm. Âu châu là gì, nếu không là thân cây khô héo tự thân, cậy tất cả nơi những tiếp ghép Đông phương và chỉ có thể được hoàn thiện nhờ nơi các tiếp ghép này?». Tại Paris năm 1842, Edgar Quinet, trong số nhiều tác giả khác, cũng nêu lên cùng hy vọng: «Cùng lúc thâm nhập vào thi ca, vào chính trị của Tây phương, Á châu cũng len lỏi vào trong các chủ thuyết; siêu thể học, đến lượt nó, củng cố sự liên kết hai thế giới», trong sách Le Génie des religion.

Sự liên kết này được hy vọng, chờ đợi, loan báo một cuộc phục hưng trên nền tảng Đông và Tây tìm gặp lại. Nhưng, sự phục sinh chẳng những đã không diễn ra, mà tất cả mọi kỳ vọng đều sụp đổ. Không phải chỉ đơn giản vì đó là một giấc mơ mà thực tại tầm thường hẳn nhiên phải khác. Mà vì, từ các năm 1820, khi những mảnh tư liệu tản mác, được thu về từ Népal, Trung Quốc, Tích Lan, Tây Tạng, Thái Lan, Nhật Bản, v.v., bắt đầu được kết tập, phân loại, so sánh; khi các nét chính của giáo thuyết nhà Phật hiện rõ, thì sức hấp dẫn hướng về một sự sống tinh nguyên bị lật ngược thành sự khinh ghét đối với một dạng thần chết. Đạo Phật vừa được phát hiện, liền bị xem là một phủ định hay một khiêu khích nội thân và bền bỉ trong lòng trật tự xã hộitrật tự tinh thần Bà-la-môn giáo, bị xem như một loại «nổi loạn luận lý» rất đặc thù chống mọi dạng thần khải và siêu thể học, hay như một đề án hủy diệt mọi tư duy, một phiến loạn, tác nhân của thoái hóa, đồi bại.

Khi ấy, đạo Phật thường được trình bày như một chủ thuyết lạ đời, không thể lĩnh hội được, cổ võ một kiểu hiện hữu chỉ nhắm đến chỗ «không-là-gì-cả», với mục tiêu tối hậu chỉ là và thuần túyhư vô – với nhiều trăm triệu con người ngưỡng vọng sự tan biến bất phản hồi của chính mình, dành trọn mọi nỗ lực thánh thiện nhất và bền bỉ nhất cho sự hủy diệt chính mình và xem đó là diễm phúc không thể diễn tả được. Làm sao, như họ nói, con người lại có thể mong cầu hư vô?

III. Chiều hướng của sự ngộ nhận

Thật vậy, trên bình diện chủ thuyết, đạo Phật rất khác với Bà-la-môn giáo, nên cũng rất mới lạ đối với các học thuyết chính của truyền thống Tây phương. Khi dần dần khám phá giáo thuyết nhà Phật, Âu châu tự hỏi đây là một Thần giáo hay là một triết hệ. Cùng với những thắc mắc về đạo Phật – như là một Thần giáo không có Thiên Chúa, một con đường cứu rỗi không có sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc không có cấu liệu nền tảng, luật thiện tách khỏi mọi lời lẽ thần linh, luân lý không bám vào siêu nghiệm … - óc tò mò của những nhà tư tưởng Âu châu thế kỷ 19 còn bị kích thích bởi một học thuyết từ lâu không được biết đến, chỉ mới được khám phá với những mảnh vụn được kết tập một cách lộn xộn. Họ nắm bắt đạo Phật bằng thị hiếu tưởng tượng hơn là bằng tinh thần khảo nghiệm khoa học. Và, ở mỗi bước của quá trình truy tìm nghiên cứu, những phát hiện mới lại dẫn tới những thắc mắc mới trên những nghịch luận về chủ đề đạo Phật. Từ những tưởng diễn theo thị hiếu đó, các bộ mặt chính của chủ nghĩa hư vô, của Âu châu thế kỷ 19, được xác lập và được tô điểm sửa sang từng bước.

Một số lớn tư tưởng gia thời đó tin rằng họ đã thấy trong đạo Phật một hiểm họa không tên, và như một cái gì không thể có được: tinh thần con người không thể thực sự muốn sự đánh mất chính mình. Thế nhưng, giáo thuyết lớn và xưa này của cả Á châu là một thực tại: tương đương với niên hạn của văn minh Hy Lạp, với số tín đồ còn nhiều hơn tín đồ Ky-tô giáo. Nhưng họ không thể xếp đạo Phật vào một loại thần học nào cả; cho nên, càng lôi cuốn bao nhiêu, đạo Phật càng làm người ta sợ bấy nhiêu. Và tất cả đều đã, hoặc ít hoặc nhiều, đồng hóa Niết-bàn với sự triệt tiêu tất cả, đã kết liền đạo Phật với chủ nghĩa bi quan, khô chết và tiêu cực; tất cả những gì của đạo Phật đều bị xem là tôn giáo của hư vô, nghịch thường và ghê tởm, chống lại trật tự «bình thường» của thế giớithế giới Tây phương, Ky-tô giáo, sống động, xác định… - Sự khiếp sợ đối với đạo Phật, nơi hầu hết các triết gia Âu châu thế kỷ 19, tựa như sự khiếp sợ trước ma quái, một sợ hãi yêu ma, một khủng bố quỉ ám hiện lộ đó đây, và có thể hủy hoại từ bên trong. Dấu vết của sự khiếp sợ còn được ghi lại rất nhiều trong những tác phẩm của các triết gia Đức – Hegel, Schopenhauer, Schelling, Nietzsche… - và nơi các học giả Pháp – Cousin, Taine, Renan, Saint- Hilaire, Quinet, Comte…, nhất là Renouvier.

Dĩ nhiên, đó là ngộ nhận. Và Roger-Pol Droit đã vạch rõ lý lẽ của sự sai lạc đó, của ảo tượng đã ám ảnh Âu châu thế kỷ 19; cho thấy, bằng cách nào, tại sao, bởi sức cám dỗ nào mà, khi nói về kẻ khác, phương xa, Á châu, Phật, người ta lại khiếp sợ trước những gì sẽ đến cho sự sống; đồng thời cho thấy, làm thế nào mà, trong khi những nhà ngữ họcĐông phương học thời đó cố gắng xác định ý nghĩa của từng câu trong các bản kinh, các tác phẩm thu thập được từ các cuộc viễn du hoặc viễn chinh và cố dựng lại từng bước lịch sử và những đặc điểm của đạo Phật, thì các triết gia lại tuyển chọn một số dữ kiện từ thuyết nhà Phật do những nghiên cứu Đông phương học cung cấp để diễn dịch Phật giáo thành một tôn giáo chủ trương hư vô của đoạn diệt luận, điều mà chính Đức Phật vẫn phê bác mạnh mẽ.

IV. Đôi điều hướng đến tương lai

Xét cho cùng, khi truyền bá tư tưởng của mình, Đức Phật đã phải sử dụng ngôn từ dễ hiểu của thời đại đó. Có thể rằng những người đã nghe và đã ghi lại những lời Phật dạy là những người đã giác ngộ, như các kinh có nói. Điều này vẫn không thay đổi được thực tế là kiểu dạng tri thứcngôn ngữ, được sử dụng để trao truyền những lời dạy đó, đã bị điều kiện hóa bởi thời đại ấy, và cũng không thể tiên đoán được những vấn đề chưa hiện hữu. Ngay cả nếu có thể tiên đoán được, thì ngôn từĐức Phật phải sử dụng, để diễn đạt những vấn đề và những giải pháp, cũng chưa được tạo ra; và nếu Đức Phậtsáng tạo ra những ngôn từ mới cần thiết, thì cũng không thể được hiểu một cách trọn vẹn.

Nếu Ngài sống vào thời đại chúng ta hôm nay, đầu thế kỷ 21 thay vì thế kỷ thứ 6 trước TL., chắc chắn Đức Phật sẽ ban lời dạy của Ngài cách khác. Không phải vì chân lýPhật pháp đã đổi khác, nhưng vì người nghe đã trải qua gần 26 thế kỷ của kinh nghiệm lịch sử. Kinh nghiệm thêm đó, không chỉ ở trình độ khái niệm và khả năng nhận định, mà còn ở tâm tínhthái độ tinh thần luôn luôn bị điều kiện hóa bởi hệ thống lý lẽ của mỗi nền văn hóa, bởi kiểu tư duy và khung tổ chức xã hội của mỗi thời kỳ văn minh, với những viễn cảnhvấn đề mới, đòi hỏi những giải đáp khác. Nói chung, đạo Phật đang được hiển hóa lại một cách mới mẻ trẻ trung trong con người thời đại.

Không phải những thành quả có được ở những thời đại trước là quan trọng, nhưng chính những phương pháp đã từng có hiệu quả giúp gặt hái được những kết quả đó mới là điều cần phải gieo trồng và truyền đạt lại, bằng những cách nhận định và trình bày mới. Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại. Mỗi người tiếp thu quá khứ bằng thực chứng hiện tại và chuẩn bị hạt giống cho tương lai. Chỉ bằng cách đó, quá khứ mới hội nhập vào kiến thức thời đại và có ý nghĩa cho hiện tại. Khác đi, quá khứ chỉ là lịch sử vì mất hẳn chất liệu thực tại.

Người Tây phương đang đến với đạo Phật ngày càng nhiều. Nhưng trên bình diện luận lý, người thời đại, với cái nhìn nhị phân, kiểu ‘hậu Descartes’, chia tư tưởng thành hai khu vực: thuận lý (rationnel) và phi lý (irrationnel), đối kháng và phủ nhận nhau. Trong khi Phật giáo, có trình bày phân biệt phạm vi ‘lý’ (rationnel) với phạm vi ‘quan hệ’ (relationnel), nhưng chúng không đối kháng loại trừ nhau. Đó là hai mặt của mọi hiện tượng, nhất thiết phải được thống hợp trong cái nhìn toàn nguyên, giúp nắm bắt thực tại trên toàn thể của nó.

Đấy là cái nhìn sự vật của mọi học phái Phật giáo, không bị giới hạn trong trí thông minh, cũng không là phóng túng ngang tàng, khác hẳn với tư tưởng của người thời đại thường đã mất mọi niềm tin, cả nơi chính mình và thế giới. Vì thế, một Phật giáo của thời đại, thế nhập với nhân sinh và mở cửa cho mọi người, phải đem đến cho con người những ‘niềm tin’ mới, với nội dung vững chắc: sự xác quyết sâu xa của con người về chính mình và kiểm nghiệm được bởi con người, khác với những đức tin thần khải; cùng lúc phải làm sống lại một cách mới mẻ những tư tưởng cốt lõi mà Phật đã gieo hạt trong tâm tư của người Phật tử. Những hạt giống này đã nẩy nở (một cách tùy duyên) trong nhiều nền văn hóavăn minh rất khác biệt, đã thích hợp với tâm tư của nhiều giống người sống trong những điều kiện rất khác nhau, nhưng không bao giờ đánh mất những chất liệu nền tảng, cũng như những ý hướng đặt biệt của chúng: sự giải thoát, sự giác ngộ (tuệ giác), và ‘tính tỉnh thức phổ quát’ (Phật tính).

 

Đỗ Thuần Khiêm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7809)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7844)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8964)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26153)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13824)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27989)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19858)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7781)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7487)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8042)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9756)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22750)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16933)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8557)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10412)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10590)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11282)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9904)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10576)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12716)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8808)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19875)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20840)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21394)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13455)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10577)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9549)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26772)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10757)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12142)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30913)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14145)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11148)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11095)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11249)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11638)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12747)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24069)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14928)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11654)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20272)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10614)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10392)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12290)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11504)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14304)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11957)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24637)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12359)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22292)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12575)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12724)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12644)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16824)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13759)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13044)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13504)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12584)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14499)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38483)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant