Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bản Chất Của Tâm Thức

14 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9255)
Bản Chất Của Tâm Thức


BẢN CHẤT CỦA TÂM THỨC

 

Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Nottingham, England, 24/05/2008 

Anh dịch: Alexander Berzin 

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 26/10/2011


 dalai_lama


NHỮNG TRÌNH ĐỘ CỦA TÂM THỨC

 

Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thứcChúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấcmơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.

 

NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA NHỮNG TÂM THỨC CHÍNH VÀ CÁC NHÂN TỐ TINH THẦN

 

Theo truyền thống Ấn Độ cổ xưa, những sự thực tập tinh thần chính yếu luôn luôn đối diện với tâm thức, thí dụ với định, tập trung chăm chú (định - samadhi), và với việc trau dồi quán, phân tích (tuệ quán - vipashyana), một thể trạng nhận thức ngoại hạng của tâm thức. Cả hai thứ này đối diện với tâm thức và với khía cạnh suy tư và sử dụng tâm thức; do thế, thật rất thiết yếu để xác định điều gì là tâm thức.

 

Có nhiều giải thích về những gì tâm thức và những đặc trưng khác nhau của tâm thứcThí dụ, có một sự khác biệt được thực hiện trong Đạo Phật giữa những tâm thức chính và các nhân tố tinh thần. Trong thực tế, chúng ta có điều này trong tất cả những truyền thống cổ truyền của Ân Độ.

 

Trong truyền thống Đạo Phật, có vài sự diễn dịch khác nhau [của sự khác biệt giữa những tâm thức chính và nhân tố tinh thần]. Có hai loại chính: một làm sự phân biệt theo những khác biệt trong đối tượng của tâm thức và thứ kia làm sự phân biệt theo bản chất tự nhiên của tâm thứcDi Lặc, thí dụ thế, trong Phân Biệt Trung Đạo với Cực Đoan, thực hiện vị thế thứ nhất. Cách thứ nhất này về phân biệt theo một sự khác biệt trong đối tượng của tâm: tâm thức chính được tập trung trên một đối tượng như toàn thể, trái lại những tâm thức thứ yếu hay nhân tố tinh thần tập trung trên sự phân biệt những nhân tố bên trong đối tượng. Với những tâm thức chính, các đối tượng được kinh nghiệm bởi tâm thức như toàn bộ, quan tâm những nhân tố tinh thần hay những tâm thức thứ yếu, ở đây các đối tượng được kinh nghiệm bởi những khía cạnh đặc thù của tâm hay những chức năng của tâm thức.

 

Bây giờ, trong cả hai thứ này, những tâm thức chính và những nhân tố tinh thần, chúng ta có thể nói về hai đặc trưng rộng: có những thứ đòi hỏi các tâm thức cảm giác và những thứ không đòi hỏi. Những thứ đòi hỏi tâm thức cảm giác và những thứ không đòi hỏi một cơ quan cảm giác là những tâm tinh thần. Bây giờ sự thảo luận của chúng ta đến gần hơn với những gì các nhà khoa học nói đến. Do vậy, chúng ta có những thức cảm giác đối với những thức tinh thần, mặc dù đôi khi tâm được sử dụng chỉ để liên hệ đến những thức tinh thần.

 

Bây giờ đối với thức tinh thần, có hai lại: một được đem tới bởi nhận thức cảm giác như điều kiện tức thời trước đó và thứ kia không có nhận thức cảm giác như điều kiện diễn tiến tức thời trước đó. Trong những tài liệu của chúng tôi, chúng tôi cũng nói về năm nhân tố chức năng tinh thần luôn hoạt động ở đấy với tất cả những tâm thức, kể cả những tâm thức cảm giác. Do vậy, thí dụ, chúng ta có sự phân biệt, cảm giác một trình độ của hạnh phúc, và v.v… Như cho sự phân biệt, điều có nghĩa "có phải nó là thứ này hay có phải nó là thứ nọ," các nhà khoa học nói rằng điều này không xảy ra trên căn bản của những cơ quan cảm giác thấy được mà chỉ trong não bộ. Chúng ta nói nhận thức cảm giác tự nó không nghĩ "điều gì đấy là thứ này" hay "điều ấy là thứ kia", nhưng nhận thức cảm giác có [nhân tố tinh thần của] sự phân biệt với nó, thí dụ ánh sáng với bóng tối.

 

NHỮNG SỰ PHÂN BIỆT XA HƠN

 

Bây giờ, tư tưởng và các trường phái của Đạo Phật dĩ nhiên cũng có những ý kiến khác nhau về điều này và những ý tưởng quan tâm đến vấn đề nhận thức hoạt động như thế nào. Theo vị thế của Tỳ Bà Sa Luận Sư, thí dụ thế, không có khía cạnh tinh thần được xem như một trung gian cho việc nhận thức điều gì đấy, trái lại theo các nhà Kinh Lượng Bộ có một khía cạnh, một phương diện tinh thần, và và đấy là những gì được kinh nghiệm thật sự. Ý kiến thứ hai thì gần gũi với quan điểm khoa học.

 

Do vậy trong những trường phái Đạo Phật có nhiều sự tranh luận liên quan đến kiễu thức của vấn đề nhận thức hoạt động như thế nào: thí dụ nhận thức liên hệ đến sự thấy. Có thảo luận giữa Kinh Lượng BộDuy Tâm (duy thức), là khi chúng ta nhìn vào một đối tượng có nhiều màu sắc, thì có phải có một số lượng tương đồng của những khía cạnh đa dạng của đối tượng và khía cạnh đa dạng của nhận thức thấy hay không? Hay có phải có những khía cạnh đa dạng của đối tượng được nhận thức bởi một phương diện đơn độc của nhận thức thấy? Hay có phải có một khía cạnh đơn độc của toàn bộ đối tượng đa dạng màu sắc được nhận thức bởi một khía cạnh của nhận thức thấy? Sự giải thích là, bất chấp những màu sắc đa dạng, tâm nhận thức tất cả chúng ta như một tổng thể dường như gần gũi với quan điểm của khoa học.

 

Đối với những cảm xúc, không có những dạng thức thật sự tương đồng với khoa học. Thí dụ những nhà khoa khoa học đương thờ, Paul Eckman - nói rằng thật khó khăn để phân biệt giữa cảm xúc, tình cảm và cá tính. Các nhà khoa học không căn cứ trên những trích dẫn của kinh luận từ những tài liệu cổ điển, mà trên sự khảo sát. Thế nên, nó có thể đầy kết quả đối với sự phối hợp xa hơn trong nghiên cứu: sẽ lợi lạc vô cùng cho cả những nhà khoa học và Phật học.

 

Như cho những đối tượng, có những thứ có những phẩm chất vật lý; có những thứ có những cách nhận biết sự vật; và rồi thì có những thứ không thuộc vào hai đặc trưng trên, nhưng tuy thế luôn thay đổi, thí dụ thời gian.

 

BẢN CHẤT TỰ NHIÊN CỦA TÂM THỨC

 

Bây giờ, đối với nhận thức hay tỉnh thức, có một hiện tượng được định nghĩa trong những dạng thức của hoạt động tinh thần: hoạt động tinh thần của sự hiểu biết hay tỉnh thức đối với việc gì đó. Những đặc trưng xác định của nó là (1) rõ ràng, (2) tỉnh thức, tỉnh thức về việc gì đó hay nhận thức về việc gì đó, và (3) kinh nghiệm việc gì đó. Trong kinh nghiệm việc gì đó, có những cảm xúc khác nhau, tích cực hay tiêu cực; nhưng, tuy thế, bản chất của hành vi tinh thần tự nó là trung tính. Cho dù một hành vi tinh thần là hữu ích hay tai hại tùy thuộc vào loại nhân tố tinh thần mà nó thật sự là [và không trên bản chất tự nhiên của nó như hành vi tinh thần].

 

Thí dụ, sân hận không là một bộ phận của bản chất tự nhiên của tâm thức: nhưng đúng hơn, sân hận tùy thuộc vào những nguyên nhânđiều kiện [nhằm để nó sinh khởi. Bản chất tự nhiên của việc gì đó, trái lại, không gián đoạn từng cơn và không tùy thuộc vào các nguyên nhânđiều kiện nhằm để sinh khởihiện diện]. Những nhân tố tinh thần nào đó, rồi thì [chẳng hạn như sân hận], được sản sinh căn cứ trên các nguyên nhânđiều kiện và chỉ trở thành ưu thế lúc ấy.

 

Khi sân hận được phát triển hoàn toàn, lúc ấy thật khó khăn để phân biệt sân hận với tự tâm thức hay hành vi tinh thần. Tuy thế, qua thực tập, chúng ta có thể nhất tâm để nhìn vào sự sân hận ấy khi nó phát triển, và chúng ta có thể quán sátsinh khởi và dừng lại. Tự hành động ấy, của việc quán sát, có khả năng để làm giảm thiểu năng lực của sân hận. Do vậy, khi một thể trạng hay nhân tố tinh thần nào đó sinh khởi, nó có thể bị ảnh hưởng.

 

Đó là một ít về bản chất tự nhiên của tâm thức.

 

MỐI QUAN HỆ GIỮ CẢM XÚCTHÂN THỂ

 

Một vấn đề hấp dẫn khác nữa mà tôi muốn hướng dẫn cho việc nghiên cứu thêm sau đây. Qua sự thay đổi của những yếu tố nào đó của thân thể vật lý, một số cảm xúc nào đó có thể sinh khởi. Sự phát triển một thái độ tinh thần cũng có thể ảnh hưởng những sự thay đổi nào đó trong thân thể. Lấy thí dụ, sân hậnthù oán. Khi sân hệ xảy ra, sự tuần hoàn máu trong một bộ phận nào đó của não bộ là lớn mạnh hơn; trái lại một bộ phận khác của não bộ trở nên năng động hơn với từ bi. Cho nên, trong trình độ vi tế, chúng ta cần khảo sát với những gì đến trước: một sự thay đổi trong não bộ đem đến một cảm xúc, hay một cảm xúc mang đến một sự thay đổi trong não bộ. Điều này cần nghiên cứu xa hơn.

 

Thí dụ, có những thay đổi trong tế bào thần kinh. Bây giờ điều này hơi vi tế, nhưng khi chúng ta có một tích lũy những thay đổi ở trình độ vi tế, sau đó chúng ta thấy sự thay đổi ở trình độ thô. Khi chúng ta sợ hãi, thí dụ thế, nhiều máu tràn đến chân vì thế chúng ta chạy; khi sân hận đến, nhiều máu chạy đến tay vì thế chúng ta đánh. Vậy nên, chúng ta có thể thấy từ những thí dụ đó rằng mối quan hệ giữa các cảm xúcthân thể thô phù thay đổi. Sự lưu chuyển của máu, thí dụ thế, là một hình thức thô mà trong ấy sự thay đổi biểu hiện, nhưng ở tại trình độ nào mà ở đấy có sự nối kết này giữa những thay đổi trong tinh thần và những sự thay đổi trong thân thể?

 

Mật tông Đạo PhậtẤn Độ giáo nói về một trình độ vi tế của năng lượng: hành vi của tâm thức hay tinh thần chuyển động trong ấy. Nó được nói như một loại "gió bên trong (nội phong) và điều ấy phải muốn nói đến điều gì đấy như năng lượng đã làm cho sự nối kết giữa trình độ thân thể thô và hành vi tinh thần. Đây là điều gì đó chung nhất giữa những phân tích của Ấn Độ giáoPhật Giáo. Cho nên đó là vấn đề thật sự cho các nhà khoa học khám phá: Điều gì là sự trung gian hay cơ cấu cho mối liên kết cho những thế giới tinh thần và vật lý?

 

Trong những truyền thống cổ truyền Ấn Độ, cả Phật Giáo và không Phật Giáo, có điều gì đấy gọi là một "sự tỉnh thức tiếp xúc nội tại". [Phật Giáo định nghĩa nó, nhân tố tinh thần mà trong sự tiếp xúc với đối tượng nhận thức, phân biệt rằng đối tượng này là vui, khổ, hay trung tính, và vì thế phục vụ như nền tảng cho việc kinh nghiệm nó với một cảm giác hạnh phúc, khổ não, hay trung tính]. Căn cứ trên sự tỉnh thức tiếp xúc nội tại này điều kiện đạt được, nhận thức thân thể sinh khởi và và đấy là điều kiện tức thời trước đấy cho nhận thức tinh thần của khổ đau hay vui sướng.

 

Cũng thế, những cảm giác khác có một vị trí nhận thức ở một giác quan đặc thù - thí dụ, cái thấy ở con mắt - tuy thế, thức xúc giác sinh khởi căn cứ trên những cảm giác thân thể và nó lan rộng toàn bộ thân thể và tất cả những giác quan cảm giác khác. Theo khoa học, những cơ cấu cảm giác của thấy và nghe, v… mỗi thứ có một vị trí nhận thức; nhưng tất cả chúng được liên hệ với não bộ. Tất cả chúng lan tỏa khắp não bộ. Cho nên ở đây, chúng ta phải thẩm tra ý kiến về một trình độ nhận thức nào đó đã lan tỏa đến tất cả những trình độ nhận thức khác [vì cả Phật học và khoa học dường như hàm ý rằng có một trình độ như vậy].

 

Khi chúng ta thẩm tra não bộ, các tế bào thần kinh, chúng ta phải thực hiện một sự phân biệt giữa trình độ thô của tâm thức và một trình độ vi tế hơn. Bây giờ, chúng ta có thể xác định trình độ thô của tâm thức [trình độ của nhận thức cảm giác] cả trong con người và con chó. Nhưng qua những sự khác biệt não bộ giữa cả hai, cho nên có những khác biệt trong tâm thức của cả hai và vấn đề cả hai biểu hiện chức năng như thế nào trên trình độ thô. [Vì thế, thí dụ, những con chó có một cảm giác phát triển cao độ hơn về hửi mùi so với con người]. Nhưng phải có một trình độ vi tế hơn [của tâm thức hay hành vi tinh thần hơn là trình độ cảm giác thô].

 

Theo mức độ mà ở đấy tâm thức tùy thuộc trên thân thể vật lý, có những trình độ khác biệt vi tế của tâm thức. Trình độ thô hơn của nhận thức cảm giác [là tùy thuộc nhất vào thân thể]. Những cảm xúc phiền não, trái lại sẽ ở trong trình độ vi tế hơn của tâm thức., một thứ ít tùy thuộc vào thân thể vật lý. Vậy thì điều gì khác biệt giữa con người và con thú [liên hệ đến những trình độ vi tế hơn của những cảm xúc và giấc mơ?]

 

Bây giờ chúng ta có những khí cụ khoa học để khảo sát tiến trình của sự chết. Loại nghiên cứu này đã diễn ra trong mười lăm năm qua. Nhưng để thử nghiệm thể trạng tinh thần của một người đang chết trong khi các điện cực được gắn vào đầu của người ấy - không ai thật sự đã chết trong khi làm thí nghiệm ấy. Nhưng bây giờ chúng ta cần nghiêm túc hơn về một thể nghiệm như vậy. Chúng ta cần cầu thỉnh người nào đấy hãy vui lòng để chết trong khi có những điện cực trên đầu của họ. Nhưng điều ấy là rất khó khăn để yêu cầu; chúng ta phải đợi một cơ hội thích đáng.

 

Mặc dù không một thử nghiệm nghiêm túc nào được thực hiện để đo lường những gì đang xảy ra qua tiến trình của sự chết, nhưng những luận điển Ấn Độ đã nói về ba trình độ của hoạt động tinh thần. Trình độ thứ ba chỉ xảy ra trong thời khắc lâm chung. [Một cách đặc biệt hơn, nó xảy ra khi] hơi thở và những chức năng của trái tim đã dừng, nhưng tuy thế, vẫn có một tiến trình nào đó của trạng thái kết quả của hoạt động tinh thần xảy ra. Trình độ này dường như thậm chí ít lệ thuộc trên trình độ vật lý [hơn bất cứ trình độ nào của tâm thức]. Vì vậy, trình độ thô là lệ thuộc trên não bộ và các tế bào thần kinh; còn trình độ vi tế hơn này: đây vẫn là một câu hỏi.

 

Cũng thế, tôi đã tự hỏi tại sao những cảm xúc phiền não của chúng ta bao gồm [theo sự giản đồ phân loại của Đạo Phật] trên trình độ vi tế, không phải trên trình độ thô. Tại sao chúng ít lệ thuộc vào thân thể vật lý thô phù? Một lần trong một cuộc gặp gở với những nhà khoa học tôi đã hỏi, "Không có bất cứ một tiến trình vật lý nào, có thể rằng một hoạt động thuần tinh thần có thể đem đến một tác động thân thể không?" và nhà khoa học trả lời, "Trong lý thuyết là vâng [có thể]; nhưng trong thực tế, là không thể".

 

Đây không phải là một sự tiếp cận khoa học lắm. Có một thử nghiệm đơn giản có thể hoàn tất. Khóc lóc hay tuôn nước mắt là một phản ứng vật lý đối với một tình trạng tinh thần, nhưng nó có thể xảy ra hoặc là với vui hoặc buồn. Có một khác biệt lớn lao trên trình độ tinh thần giữa hai thứ này, nhưng sự phản ứng thân thể là giống như nhau. Nếu khóc chảy nước mắt từ một niềm vui của mắt bên phải và nước mắt chảy ra từ mắt bên trái do buồn rầu, thế thì trên trình độ thân thể vật lý chúng ta có thể phân biệt chúng. Nhưng, không phải là vậy: sự phân biệt không phải trên trình độ thô. Do vậy, để khảo sát trình độ cảm xúc, chúng ta phải nhìn sâu hơn trình độ vật lý thô nhất. Nhưng để khảo sát tâm thức bằng việc nghiên cứu

[chỉ trình độ vật lý của] não bộ - chúng ta cần hỏi rằng điều này vẫn tồn tại việc gì đó chứ, nếu nó vẫn quá tổng quát.

 

Trong luận lý Phật Giáo, chúng ta nói về những hình thức suy luận khác biệt. Thí dụ, bằng việc quán sát những phẩm chất tương tự trong những thứ giống nhau, chúng ta có thể khái quát hóa và suy ra một đặc trưng. Hay nếu điều gì đấy không quán sát thấy những phẩm chất này, chúng ta có thể suy ra rằng nó rơi vào trong một đặc trưng khác.Nhưng những thứ này là [những hình thức lý trí] quá bao quát và không đi đến kết luận cho việc đi đến một quyết định về loại vấn đề này liên hệ đến mối quan hệ giữa những cảm xúcthân thể.

 

Nguyên bản: The Nature of the Mind

Tuệ Uyển chuyển ngữ - Ẩn Tâm Lộ ngày 24-7-2013

 

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level4_deepening_understanding_path/mind_mental_factors/nature_mind.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19361)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24626)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15742)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37830)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21639)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14406)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12816)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28618)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34383)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32187)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26291)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12279)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13413)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26943)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13151)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12315)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12574)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17664)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11324)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10837)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11075)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26852)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18676)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23038)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34547)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32186)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant