Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Kho Báu Ẩn Tàng

26 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11856)
Chương 1: Kho Báu Ẩn Tàng


LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Về Sự Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội

Tỳ Kheo Tiến Sĩ Basnagoda Rahula
Chuyển Ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh & Diệu Ngộ Mỹ Thanh 2010

Chương 1

Kho Báu Ẩn Tàng

Mặt trăng, mặt trờigiáo Pháp của ta…

Tất cả đều chiếu sáng rực rỡ khi được khám phá ra.[1]

Tăng Chi Bộ Kinh

 Đối với một số người, sự hướng dẫn của Đức Phật dành cho người cư sĩ để họ có được cuộc sống thế tục tốt lành, có vẻ là một đề tài hoàn toàn mới và lạ lẫm. Đa sốnhận định chung rằng Đức Phật chỉ dạy về khổ, vô thường, và sự diệt dục. Do ảnh hưởng của niềm tin này, chúng ta có thể cho rằng Đức Phật đã không quan tâm đến hạnh phúc trong đời sống thế tục và không khuyến khích hàng đệ tử tại gia đạt được thành công vật chất trong cuộc sống. Hơn thế nữa, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Phật khuyên tất cả những người lắng nghe giáo lý của Ngài từ bỏ mọi niềm vui thế tục và chỉ tìm kiếm hạnh phúc trong đời sống xuất gia.

 Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu hơn về giáo lý của Đức Phật, chúng ta sẽ thấy rằng sự diễn giải đó hoàn toàn không chính xácRõ ràngĐức Phật công nhậntán thán hạnh phúc trong cuộc sống thế tục. Ngài không những khuyến khích ta tìm kiếm hạnh phúc, tạo ra tài sản, mà còn dạy ta làm thế nào để tiết kiệm, đầu tư và quản lý tài sản nữa. Ngài cũng có những lời khuyên đối với cộng đồng cư sĩ về sự tương giao, các mối liên hệ xã hội, việc chọn lựa các quyết định sáng suốt và sự phát triển nhân cách một cách lành mạnh.

 Tóm lại, trái với những gì người đương thời suy nghĩ, giáo lý của Đức Phật bao gồm cả những lời dạy vô giá giúp người cư sĩ đạt được thành cônghạnh phúc trong cuộc sống.

Xã Hội Đặc Biệt, Tôn Giáo Đặc Trưng

 Người đọc tò mò sẽ tự hỏi tại sao Đức Phật lại quan tâm đền đời sống thế tục? Họ có thể cho rằng tôn giáo phải là một hệ thống niềm tin vượt lên trên những điều liên quan đến đời sống thế tục, chứ không phải là một hệ thống tư tưởng nhằm hướng dẫn cuộc sống thế tụcTuy nhiên, giáo pháp của Đức Phật mang đến cho ta một cách tiếp cận tôn giáo hoàn toàn khác với phần lớn các tôn giáo khác.

 Triết lý cơ bản của Đức Phật và các yếu tố xã hội đặc trưng ở Ấn Độ vào thể kỷ thứ VI trước công nguyên, là hai nguyên nhân đưa đến việc Đức Phật không chỉ giúp các đệ tử của Ngài đạt đến sự tiến bộ tâm linh mà cũng giúp họ sống cuộc sống đời thường của mình một cách hoàn hảoĐức Phật chẳng bao giờ tự cho mình hay các đệ tử của mình là những vị sứ giả hay đại diện cho một quyền lực thần bí nào. Do đó, tầm quan trọng và giá trị của giáo lý của Ngài đối với xã hội phải thể hiện chủ yếu về mặt những ích lợi xã hội một cách cụ thể, rõ ràng.

 Trong khi một vị Bà-la-môn có thể hướng dẫn đệ tử mình cúng bái phẩm vật cho một vị thần thánh nào đó để xua đuổi một tai họa đang đe dọa, thì Đức Phật không chủ trương cần có các nghi lễniềm tin như thế. Trái lại, Đức Phật nhấn mạnh đến sự nỗ lựctrách nhiệm cá nhân, coi đó là chìa khóa để giải quyết những hoàn cảnh khó khăn. Bất cứ khi nào người thính Pháp đặt ra câu hỏi về đời sống cá nhân của mình, Đức Phật cũng sẽ phân tích vấn đề và đưa ra các giải pháp dựa trên trách nhiệm, bổn phận và khả năng của con người. Vì Đức Phật và các đệ tử xuất gia của Ngài luôn đưa ra những giải pháp hợp lý cho các đệ tử tại gia, nên “đời sống tại gia” trở thành một đề tài thường xuyên được nhắc đến trong giáo lý của Đức Phật.

 Sự kỳ vọng của xã hội cũng khuyến khích ta quan tâm đến đời sống hàng ngày sâu sắc hơn. Đức Phật sống ở một thời đại trong đó hàng trăm các nhà truyền giáolãnh đạo tư tưởng tranh giành nhau kêu gọi tín đồ tin theo tông phái của mình. Một số diễn giả này đã công khai chống lại các vấn đề tâm linh, và thuyết phục con người rằng những tư duy như giác ngộ, sự hiện hữu sau khi chếttái sinh đều là ảo tưởng. Kết quả là xã hội đó trở nên bài xích tôn giáo, quá thiên về thế tục đến nỗi hầu hết mọi người đều thấy rằng cuộc sống hiện tại của họ hấp dẫn hơn những gì đang chờ đợi họ ở phía trước –và họ hướng về những vị thầy có thể giúp đỡ họ trong cuộc sống hằng ngày hơn là những vị thuyết giảng về cuộc sống sau khi chết.

 Thính giả của Đức Phật cũng mang theo những kỳ vọng này đến với Phật. Họ mong đợi Đức Phật có thể chỉ dạy cho họ phương cách để đạt được thành công trong đời sống thế tục. Điều thú vịgiáo lý của Đức Phật rất phù hợp với một xã hội như thế. Đức Phật không ngừng ứng dụng triết lý của Ngài để đem lại lợi ích cho cộng đồng cư sĩ, và điều đó đã làm cho các đề tài về cuộc sống thế tục được thêm phong phú. Vì lẽ đó, sự phồn vinh của xã hội, thể hiện trong cuộc sống thế tục, trở thành là một đề tài lớn và sâu sắc trong giáo lý của Đức Phật.

 Thế kỷ thứ VI trước Công nguyênthời đại phục hưngẤn Độ. Các doanh nhân nhộn nhịp trao đổi, buôn bán với Ba Tư và Hy Lạp qua đường bộ và đường biển. Với việc kinh doanh phát triển và tài sản tăng trưởng, các cộng đồng dân cư khá giả bành trướng ra Magadha và Kosala –hai bang mà Đức Phật thường xuyên viếng. Do đó, việc quản trị kinh doanh, việc có những quyết định khôn ngoan –cùng với việc sắp xếp đời sống gia đình, làm chủ các mối liên hệ xã hội- được xem là những khía cạnh quan trọng trong cuộc sống đời thường. Đức Phật, với uy lực, với sự nổi tiếng của Ngài, cũng như với các cách tiếp cận hợp lý đối với những vấn đề này, đã khiến Đức Phật nổi bật lên trong xã hội thời đó như là một nhà tư vấn lỗi lạc nhất đối với cộng đồng cư sĩ.

 Hơn thế nữa, Đức Phật phải đóng một vai trò đặc biệt linh động trong việc dung dưỡng cộng đồng cư sĩ giàu có, vì tăng đoàn của Ngài không thể tồn tại nếu không có các vị thí chủ giàu có này. Cả Đức Phật lẫn các đệ tử xuất gia của Ngài đều không phải là các vị đạotu hành khổ hạnh. Họ là những nhà vận động xã hội, những người sống trung đạo, tránh cả hai việc tự hành xác hay tự đắm mình trong dục lạcVì lợi ích của hàng đệ tử xuất gia, Đức Phật hoàn toàn thỏai mái khi nhận đất đai, tài sản do các vị thí chủ giàu có cúng dường và Ngài cũng thường nhận lời mời đến các lâu đài hay dinh thự của họ để thọ trai, thường là cùng với hàng trăm tỳ kheo khác. Vì sự tồn tại của tăng đoàn của Đức Phật tùy thuộc vào sự phát đạt của các vị thí chủ cư sĩ, nên Đức Phật cần hướng dẫn họ đến sự thành công vật chất.

 Quan điểm của Đức Phật đối với nhiều khía cạnh của đời sống thế tục dường như là do ảnh hưỡng của chính những sự liên hệ của Ngài với tầng lớp thượng lưu. Một số các đệ tửthí chủ trung thành nhất của Đức Phật là các vị vua, hoàng tử, các doanh nhân, là những người luôn cố gắng làm tăng trưởng thêm của cải, tài sảnthỏa mãn dục lạc của họ. Thí dụ vua Kosala thường hỏi Đức Phật những câu như là “Giác quan nào cần được thỏa mãn nhất?”[2] Nhiều người khác lại hỏi về việc làm sao để đời sống của họ hạnh phúc hơn. Do nền tảng xã hội đặc biệt này, “sự thành cônghạnh phúc trong đời sống thế tục” đã trở thành một đề tài quan trọng trong giáo lý của Đức PhậtĐức Phật bằng nhiều cách, cũng tích cực giúp các đệ tử tại gia trong đời sống gia đình của họ, và Ngài cũng khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài nên làm như thế.

Hai Quan Điểm Về Hạnh phúc

 Đức Phật quan niệm về hạnh phúc một cách rất thực tế: như là một điều gì đó thực sự hiện hữu. Để khuyến khích các đệ tử xuất gia của mình đi tìm hạnh phúc trong đời sống xuất thế, Đức Phật dạy rằng:

 Có hai loại hạnh phúc: một là trong đời sống thế tục (gihi sukha), và một nữa là trong đời sống xuất gia (pabbajja sukha). Trong hai loại hạnh phúc này, hạnh phúc trong đời sống xuất giatốt hơn cả.

 Có hai loại hạnh phúc: một phát xuất từ sự thỏa mãn dục lạc (kama sukha), và một nữa phát xuất từ việc từ bỏ thỏa mãn các dục lạc (nekkhamma sukha). Trong hai loại này, hạnh phúc phát xuất từ việc từ bỏ sự thỏa mãn dục lạctốt hơn.[3]

 Hai mệnh đề này bộc lộ cho ta thấy quan điểm của Đức Phật về hạnh phúc. Như thế, Đức Phật đã nói rõ rằng hạnh phúc có mặt trong đời sống tại gia, và trong việc thỏa mãn các dục lạc. Ngay cả khi có sự hiện diện của các vị tỳ kheo, là những người rất cần được nhắc nhở về những điều bất như ý trong đời sống thế tục, Đức Phật cũng không bao giờ chối bỏ sự thậthạnh phúc có mặt trong thế giới vật chấtdục lạcTuy nhiên, Đức Phật khẳng định rằng hạnh phúc trong đời sống xuất gia thì cao quý hơn.

 Nhiều chứng cứ khác có thể được tìm thấy trong các kinh tạng cũng xác định lập trường này. Thật vậy, Đức Phật đã định nghĩa hạnh phúc như sau:

 “Hạnh phúc có mặt trong đời sống thế tục… Hạnh phúc đó là gì? Đó là sự thỏa mãn có được qua năm giác quan (kamaguna). Các đối tượng giác quan liên quan đến cái thấy, cái nghe, đến hương, đến vị và sự xúc chạm, là thật sự có mặt. Các đối tượng này quyến rũ, dễ chịu, hấp dẫn, mời gọi và đáng hưởng thụ. Những trải nghiệm có được qua năm giác quannăm dục lạc mà người ta có thể đạt được trong cuộc sống tại giaHạnh phúc người ta có được từ sự trải nghiệm năm loại dục lạc này được gọi là hạnh phúc trong đời sống thế tục”.[4]

 Như thế, quan điểm của Đức Phật về hạnh phúc trong đời sống thế tục rất rõ ràng và đầy đủ. Người cư sĩ luôn trải nghiệm những sự thỏa mãn giác quan, hay kamaguna, và năm điều lợi ích của chúng: cảnh đẹp, âm thanh êm tai, mùi hương quyến rũ, vị ngon và những xúc chạm dễ chịu. Những lợi ích này được gắn liền với đời sống thế tục, và con người có quyền hưởng thụ chúng.

Thụ Hưởng Những Lợi Ích của Đời Sống Thế Tục

 Đức Phật không chỉ chấp nhận sự có mặt của hạnh phúc trong đời sống thế tục, mà Ngài còn khuyến khích điều đó. Mặc dầu Đức Phật nhấn mạnh (nhất là với sự hiện diện của các tỳ kheo) rằng hạnh phúc trong đời sống thế tục thì thứ yếu so với hạnh phúc của đời sống xuất gia, sự khẳng định này không nhằm làm giảm đi giá trị của đời sống thế tục. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là có một thứ hạnh phúc sâu lắng hơn đang chờ đợi những ai sẵn lòng buông bỏ các dục lạc thế gian.

 Vì sự xả ly đem đến một trạng thái hạnh phúc vững bền hơn, “hạnh phúc trong sự xả ly” này, hay vimutti sukha, được cho là ‘tốt hơn”. Đây là loại hạnh phúc đã được chính Đức Phật cũng như các đệ tử xuất gia của Ngài chứng nghiệm. Những người xuất gia từ bỏ cuộc sống thế gian, do có ít bổn phận hơn người tại gia, sẽ đối mặt với ít chướng ngại hơn trên đường tìm kiếm sự bình an nội tâmTrái lại, hạnh phúc trong đời sống tại gia, luôn biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những mối lo toan luôn tiềm ẩn trong cuộc sống đó. Tuy nhiên ngoài điều so sánh duy nhất này, rằng hạnh phúc tâm linh vượt trội hơn hạnh phúc thế tục, không có chứng cứ gì để kết luận rằng Đức Phật chê trách đời sống thế tục hay hạnh phúc trong đời sống đó.

 Do Đức Phật không chê trách đời sống thế tục, nên Ngài luôn sẳn sàng khuyên nhủ, ‘tư vấn’ cho những ai muốn biết làm thế nào để cho cuộc sống tại gia của họ được hạnh phúcthành đạt hơn. Rất nhiều người đến đảnh lễ Đức Phật và thỉnh ý Ngài để được thành cônghạnh phúc. Điều thỉnh cầu sau đây thường xuất hiện trong nhiều bản kinh, phản ảnh nguyện vọng của cộng đồng cư sĩ đối với Đức Phật:

 “Bạch Thế Tôn, chúng con là những người tại gia, sống với gia đình, còn ăn mặc đẹp, còn dùng dầu thơm, vòng hoa, và còn chấp nhận vàng bạc. Xin Thế tôn hãy hướng dẫn để chúng con có thể làm cho sự hiện hữu của kiếp sống này và kiếp sống kế tiếp được hạnh phúc”.[5]

 Để đáp lại những lời thỉnh cầu này, Đức Phật không bao giờ tỏ ra bất cứ sự coi thường nào, dù nhỏ nhặt, đối với cách sống của những người tại gia và Ngài thường dành cho họ những lời dạy đầy đủ chi tiết về cách làm thế nào cho cuộc sống của họ được tốt đẹp hơn. Đức Phật xem những lời hướng dẫn này như là sampada, những yếu tố đem lại lợi ích cho đời sống thế tục. Bốn mươi lăm năm tích cực trong việc chuyển hóa xã hội, Đức Phật đã để lại những lời dạy vô cùng giá trị trong các kinh tạng –và đó là những điều ta sẽ bàn kỹ trong quyển sách này.

Các Đối Tượng Thính Giả

 Dầu Đức Phật có sự quan tâm đáng kể đến hạnh phúc và sự thành công vật chất của hàng cư sĩ, trong kinh tạng rõ ràng cũng có những đoạn với những quan điểm dường như đối nghịch. Các bản kinh đó cho ta cảm giáccuộc sống thế tục, thế giới vật chất không được tán thán, với khuynh hướng tránh xa các dục lạc thế gian. Tuy quan điểm có vẻ mâu thuẫn này có mặt rải rác trong nhiều bản kinh, chúng ta cần phải xem xét các đoạn kinh này từ cái nhìn về xã hội và lịch sữ thời đó để khám phá ra mục đích và đối tượng thính giả nào các bản kinh này nhằm hướng tới.

 Nhiều diễn giải sai lạc về giáo lý của Đức Phật đã phát sinh, cụ thể là do không phân biệt được một bản kinh nào đó được nói cho đối tượng thính giả nào.

 Như đã trình bày ở trên, Đức Phật đã dành khá nhiều thời gian để phản biện lại những quan niệm mà các nhà truyền thống và những nhóm cực đoan khác chủ trương. Vì lý do đó Đức Phật cần một cộng đồng dấn thân và chứng đạoGiáo phái Vệ Đà có các nhà Bà-la-môn, là những nhà đạo hạnh có học, với chủ trương bảo vệ truyền thống một cách quyết liệt. Giáo phái Jain thì huấn luyện nam nữ đệ tử của họ tu khổ hạnh để xây dựng một hệ thống xã hội khắc khe. Ảnh hưỡng bởi cả hai truyền thống này, Đức Phật đã thành lập nên khái niệm tăng đoàn (Sangha)Cộng đồng xuất gia này đáp ứng được một nhu cầu quan trọng: là sự thành lập một cộng đồng hoàn toàn tự nguyện và có khả năng truyền bá những lời Phật dạy đến với xã hội. Những khái niệm về vô thường, khổ và sự xuất ly khỏi đời sống thế tục được sử dụng chính là để rèn luyệnduy trì cộng đồng xuất gia này.

 Điều này không có nghĩa rằng Niết Bàn, một trạng thái an lành mà người ta có thể đạt được bằng cách từ bỏ tâm bám víu vào dục lạc thế gian, chỉ là một phương tiện dùng để huấn luyện tăng đoànChúng ta khó mà bỏ qua sự khẳng định liên tục của Đức Phật và các đệ tử của Ngài rằng cuộc sống xả ly, không bám víu của họ tuyệt đối hạnh phúc -một thứ hạnh phúc mà ta có thể trải nghiệm được bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi ta đã có thể tách mình ra khỏi những cuộc chạy đuổi theo dục lạc thế gian.

 Tuy nhiên, không bám víu vào dục lạc thế gian cũng là một phương cách hữu hiệu để rèn luyện, tổ chức và phát triển cộng đồng tăng ni, là nền tảng xã hội của Đức Phật. Khi những sự bất như ý (khổ) trong cuộc sống thế tục được nhấn mạnh và lặp đi lặp lại cho tăng đoàn và cho bất cứ ai có ý muốn bước vào con đường xuất gia, thì những lời dạy này không phù hợp đối với cộng đồng cư sĩ của Đức Phật.

 Rèn luyện tâm xả ly khỏi các dục lạc giác quan là cũng là cách để cộng đồng tu sĩ có thể sống xả ly. Trong khi một vị tu sĩ thuộc tông phái khác có thể chọn lựa đời sống tâm linh để phục vụ tốt hơn cho một quyền lực tối thượng nào, thì những động lực tôn giáo như thế không có mặt trong giáo lý của Đức PhậtĐức Phật khuyến khích nam nữ đệ tử của Ngài gia nhập tăng đoàn vì Ngài biết rằng một đời sống xả ly sẽ mang đến cho họ nhiều an lành nội tâm hơn là ở đời sống thế tục. Do đó, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài không ngừng quán tưởng về vô thường và sự bất như ý (khổ) của đời sống thế tục. Sự chuyển đổi thái độ đối với đời sống thế tục khiến cho các đệ tử xuất gia của Ngài trở nên tự tại hơn, và trở thành những vị tăng ni dấn thân; điều này có thể tạo nên những hiệu ứng xã hội tốt đẹp như Đức Phật đã chủ định. 

 Không phải tất cả mọi lời dạy trong kinh tạng là dành cho tất cả mọi người. Để tránh khỏi những kết luận sai trái này, chúng ta cần phải xác định các đối tượng thính giả khác nhau cho những bài kinh khác nhau. Không thể chỉ vì Đức Phật luôn nhắn nhủ các đệ tử xuất gia của Ngài quán tưởng về vô thường và khổ, mà ta kết luận rằng Ngài đòi hỏi tất cả các đệ tử (tu sĩ cũng như cư sĩ) đều phải tuân theo lời dạy này.

 Thực ra, không có chứng cứ gì trong các kinh tạng –nơi tập hợp những lời giảng trung thực nhất của Đức Phật- rằng Ngài kêu gọi các đệ tử cư sĩ phải quán tưởng về vô thường hay khổ. Dĩ nhiênĐức Phật cũng đề ra các phương pháp hành thiền hữu ích cho cộng đồng cư sĩ, nhưng các phương pháp này không nhằm cản trở hạnh phúc của đời sống thế tụcTrái lại, qua các bản kinh nguyên thủy, ta thấy rằng các đệ tử tại gia được khuyên phải sống cuộc đời của họ một cách an lạc và có ý nghĩa.

 Để tiện cho việc thảo luận, chúng ta có thể chia các đối tượng thính giả và tiêu chí của các kinh ra thành ba loại:

  1.  Các pháp hướng dẫn dành cho các vị sắp hay đã xuất gia.
  2.  Các pháp lý luận, phân tích để phản biện lại với những quan điểm đối nghịch.
  3.  Các pháp hướng dẫn và phân tích dành cho cộng đồng cư sĩ.

 Trong ba loại này, những bài kinh dành cho cộng đồng xuất gia rõ ràng là nhiều hơn các loại khác. Điều này có thể đưa đến kết luận sai lạc rằng Đức Phật chỉ chú tâm rèn luyện các đệ tử xuất gia của Ngài hơn là giúp đỡ các hàng cư sĩTuy nhiên, dường như có nhiều lý do khác hơn là việc Đức Phật chỉ hướng đến hàng đệ tử xuất gia.

Tại Sao Đời sống Tại Gia Có Vẻ Ít Quan Trọng Hơn

 Tại sao những lời dạy của Đức Phật đối với người cư sĩ dường như khôngvị trí quan trọng trong các kinh tạng? Để có thể đưa ra một lời giải thich rõ ràng cho câu hỏi này, chúng ta phải nhìn lại lịch sử thời đó. Điều quan trọng là phải xem ai, trong gần hai mươi sáu thế kỷ, đã lưu truyền những lời dạy của Đức Phật –và bằng cách nào.

 Trước tiên, giáo lý của Đức Phật được lưu truyền bởi các vị tỳ kheo. Dầu Đức Phật đã đi hoằng pháp không ngừng nghỉ trong suốt bốn mươi lăm năm và đã thuyết giảng cho biết bao đối tượng, chỉ một số rất ít giáo lý hay thuyết giảng của Ngài được ghi chép lại. Hơn tám mươi phần trăm các kinh trong kinh tạng là dành cho các vị tỳ kheo sống trong các tu viện. Dường như các vị tỳ kheo chỉ quan tâm gìn giữ những gì liên quan đến họ, chứ không phải tất cả những điều Đức Phật đã giáo hóa đám đông quần chúng.

 Từ quan điểm của các vị tỳ kheo, ta có thể hiểu được tại sao sự lưu truyền các giáo lý của Đức Phật có phần thiếu sótNgay sau khi Đức Phật nhập diệt, các vị trưởng lão tăng cảm thấy nhu cầu bức thiết nhất của họ là duy trì sự thống nhất và kỷ luật trong tăng đoàn. Với cộng đồng tăng đoàn ngày càng phát triển, nhiều quan điểm, phương cách thực hành dị biệt đã len lỏi vào nội bộ tăng đoàn; việc này đòi hỏi phải được giải quyết. Cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên, được thiết lập chỉ ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, được phát khởi một phần cũng bởi những cách hành xử sai lệch của một số vị tỳ kheo. Trong hoàn cảnh này, việc kết hợp, khẳng định mạnh mẽ lại giáo lý của Đức Phật đối với các vị tỳ kheocấp thiết. Và các vị tỳ kheo học thuộc lòng các kinh tạng Pali nhằm lưu truyền chúng, dường như đã thêm vào, sửa đổiloại bỏ nhiều kinh để chỉ nhấn mạnh về giới luật trong tăng đoàn của họ.

 Tuy nhiên, phương cách này vô tình đã thay đổi cái nhìn tổng quan về giáo lý của Đức Phật. Trong các kinh tạng được lưu truyền, giáo lý dành cho hàng đệ tử xuất gia có vẻ nổi trội hơn và giáo lý dành hàng cư sĩ tại gia thì không rõ ràng. Do đó, người đọc có thể kết luận một cách sai lệch rằng Đức Phật không quan tâm đến hàng đệ tử tại gia của Ngài.

 Việc phân nhóm các kinh cũng khiến cho giáo lý của Đức Phật dành cho hàng đệ tử tại gia có vẻ kém quan trọng. Ở lần kết tập kinh điễn thứ nhất, nhiều kinh được xếp loại tùy theo độ dài, ngắn. Những bài kinh dài của Đức Phật được xếp vào nhóm Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya). Hàng trăm các bài kinh ngắn hơn được đặt trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya). Hàng ngàn các bài kinh khác được xếp đặt tùy theo số thứ tự trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya). Thí dụ, bất cứ bài pháp nào giải thích về hai nhân, hai quả, hai loại người, vân vân, được nhóm lại dưới các bài kinh “Số Hai”. Các tiểu tựa cũng được đánh số để phân loại chi tiết hơn. Lần nữa, sự xếp đặt này khiến cho phần giáo lý dành cho cuộc sống thế tục dường như không quan trọng, hoặc mâu thuẫn. Đối với người đương thời, triết thuyết về khổ của Đức Phật vẫn còn là đề tài nổi trội, dành cho tất cả mọi người

 

Những Sự Suy Diễn Sai Lệch Mới

 

 Một số nhà văn và dịch giả trong lịch sử cận đại đã bị kẹt trong sự lầm lẫn này. Họ nghĩ một cách sai lệch rằng con đườngĐức Phật vạch ra cho hàng đệ tử xuất gia của Ngài, là giáo pháp dành cho tất cả mọi người. Một trong những hậu quả của việc hiểu lầm đó là quan điểm cho rằng ‘Phật giáo bi quan’.

 Arthur Schopenhauer, một nhà tư tưởng Đức nổi tiếng, đã thiết lập lý thuyết về bi quan sau khi đọc qua một vài bản kinh Phật giáo đã được dịch. Qua sự trình bày những hiểu biết của ông về Đức Phật, ông muốn gợi ý cho các nhà phê bình so sánh triết lý của ông với giáo lý của Đức Phật. Kết quả là, quan niệm “Phật giáo bi quan” đã được thế giới Tây phương chấp nhận cùng với lý thuyết về bi quan của Schopenhauer.

 Hơn thế nữa, gần như tất cả mọi dịch giả của các kinh tạng đều xem thuật ngữ dukkha, được lặp đi lặp lại trong kinh như là “khổ”, khiến cho người đọc nghĩ rằng Đức Phật xem đời sống thế tục như là khổ đau. Tuy nhiên, dukkha ám chỉ tính chất không thỏa mãn của tâm con người, chứ không chỉ những gì được coi là khổ. Đức Phật sử dụng thuật ngữ này với mục đích hướng các vị tỳ kheo đến Niết Bàn –chứ không phải để hướng dẫn hàng đệ tử tại gia.

 Tệ hơn nữa, hàng trăm sách viết về giáo lý của Đức Phật xem những lời dạy của Ngài đối với hàng đệ tử xuất giagiáo lý chung cho toàn thể cộng đồng Phật tửQuan niệm sai lầm này đã dẫn đến một kết luận chung rằng Đức Phật không chấp nhận đời sống thế tụcchê trách hạnh phúc trong đời sống đó.

Khám Phá Chân Lý

 Nghiên cứu các kinh tạng kỹ hơn sẽ cho chúng ta thấy rõ rằng giáo lý của Đức Phật dành cho hàng cư sĩ rất gần gủi với đời sống thế tục hơn là chúng ta nghĩ. Chúng tôi tìm thấy trong kinh tạng có hơn cả trăm bài pháp, từ những bài dài đến những bài ngắn chỉ có vài câu pháp thoại, đặc biệt nói về đời sống tại gia. Các chương sắp tới trong sách này sẽ đặt trọng tâm vào các bài kinh đó để làm rõ hơn quan điểm của Đức Phật về đời sống thế tục và cũng như sự hướng dẫn của Ngài đối với hàng cư sĩ về sự thành cônghạnh phúc.



[1] Câu trích từ: Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Bharandu: Kinh Paticchanna

[2] Tương Ưng Bộ Kinh I: Kosala Samyutta: Kinh Pancaraja, 175-176

[3] Tăng Chi Bộ Kinh II: Phẩm Sukha: 1-2; 1283-1285

[4] Tương Ưng Bộ Kinh IV: Vedana Samyutta: Kinh Niramisa

[5] Tương Ưng Bộ Kinh XI: Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya; 1796-1799


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14172)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15517)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19360)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24622)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37825)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13478)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13095)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17180)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17387)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21637)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13218)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14401)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12814)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13655)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23399)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34378)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28883)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32185)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26290)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17374)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40513)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26940)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14459)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13253)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13461)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12537)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13148)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12314)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11790)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12573)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17662)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12206)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12752)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18435)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10289)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28897)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25282)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26850)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18673)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23036)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34542)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant