Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Duyên Khởi Và Tính Nhất Quán Trong Giáo Lý Nhà Phật

04 Tháng Mười Hai 201411:07(Xem: 7909)
Lý Duyên Khởi Và Tính Nhất Quán Trong Giáo Lý Nhà Phật


DUYÊN KHỞI VÀ TÍNH NHẤT QUÁN TRONG GIÁO LÝ NHÀ PHẬT




TÁNH KHÔNG - DUYÊN KHỞI  TRONG GIÁO LÝ ĐẠI THỪA

Có người tìm đến Phật pháp không chỉ mong cầu lợi ích cho chính mình, mà còn mong cầu mang lại lợi ích cho những người khác, không chỉ mong cầu giác ngộ giải thoát cho chính mình mà còn mong cầu mang lại giác ngộ giải thoát cho tất cả chúng sinh. Vì những người này, đức Phật thuyết giảng giáo lý Đại thừa.      

Đến đây, chúng ta cần làm quen các khái niệm sau:

Pháp, được dùng để chỉ cho mọi sự, mọi vật. Thánh, phàm, chân, vọng, tâm (tư tưởng, tình cảm), vật (từ các vật cực lớn như thiên hà vũ trụ, các vật trung bình như sông, núi… đến các vật cực bé như nguyên tử, hạt hạ nguyên tử…) v.v… mỗi mỗi đều là pháp. 

Pháp tánh, là tánh của pháp, chỉ cho yếu tính, là phần bất biến nơi pháp. 

Pháp tướng, là tướng của pháp, chỉ cho tất cả những gì mà pháp biểu hiện ra để chúng ta có được sự thấy, nghe, ngửi v.v… hiểu biết về pháp. 

Điểm khác nhau giữa giáo lý Tiểu thừagiáo lý Đại thừa nằm ở chỗ trong giáo lý Tiểu thừa, chỉ nói đến pháp tướng, cùng với thực lý Nhân duyên chi phối các pháp tướng, chưa nói gì đến pháp tánh. Có chăng cũng chỉ nói rằng, pháp khôngtự tánh, không có tự thể. Giáo lý Đại thừa nói đầy đủ về tánh tướng của pháp. Giáo lý Đại thừa chỉ ra rằng, thực tánh của pháp là không tánh (gọi là tánh  không), thực tướng của pháp là không tướng. Muôn sự, muôn vật đang bày hiện trước mắt chúng ta với vô vàn tướng trạng sai khác là tướng Duyên khởi của pháp. Do thực tướngkhông tướng, nên tướng Duyên khởitướng không tướng. Tướng không tướng là tướng phù hợp tánh không của pháp. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua phần giáo lý Tánh không - Duyên khởi

1. Tánh không : Trong Trung luận, Bồ-tát Long Thọ đã chứng minh rằng, thực tánh của tất cả pháp vốn không sinh không diệt, không thường không đoạn, không đến không đi, không một không khác (Bát bất).   

Nói một cách ngắn gọn, thực tánh không phải có cũng không phải không. 

Nói một cách đầy đủ, thực tánh không thuộc phạm trù các nhị biên phân biệt[1].        

Lìa khỏi phạm trù các nhị biên phân biệt, ngôn từ mất hết tác dụng. Nghĩa là, ngôn từ không thể diễn tả được thực tánh, nhưng tánh ấy lại luôn đầy đủ nơi tâm mỗi chúng sinh. Vì thế, Phật Tổ dùng ngôn từ làm phương tiện giúp chúng sinh tự ngộ, là tự nhận ra thực tánh của mình, cũng là thực tánh của tất cả pháp. 

Do sự hạn chế của ngôn từ, nên qua ngôn từ, chúng ta chỉ có được những diễn giải phù hợp với thực tánh, không phải là chính thực tánh. Ở đây, chỉ những mệnh đề phủ định là thích hợp[2]. Điều này lý giải tại sao trong kinh luận nhà Phật sử dụng nhiều mệnh đề phủ định. 

Thực tánh thì không sinh không diệt v.v… (bất nhị), không là một hình tướng, không là một tính chất, không là một tính cách, không là một tổ hợp của các tính chất, tính cách v.v… Thực tánh thì không tánh. Tánh không tánh, gọi tắt là tánh không. Tánh không là thực tánh qua ngôn từ. Kinh Viên giác nói “Tánh viên giác, phi tánh tánh hữu”. Nghĩa là, tánh Viên giác không là có, không là không, không là hình tướng, không là tính chất v.v… Không là một cái gì để chúng ta có thể cảm nhận bằng các giác quan hay nghĩ tưởng ra được, nên nói là “phi tánh”. Dù vậy, cái “không là gì cả” đó lại là nền tảng để những cặp nhị biên như có-không, tâm-vật, tánh-tướng… y vào đó mà hiện khởi. Vì chẳng thể không có tánh Viên giác nên nói là “tánh hữu”. 

2. Duyên khởi   

Do pháp tánh là không, nên pháp tướng không tướng. Vì pháp không tự tướng nên muốn khởi tướng, pháp phải nương vào pháp khác, lấy pháp khác làm duyên (điều kiện) để khởi lên tướng của chính mình. Vì nương vào duyên để khởi tướng nên gọi là Duyên khởi

Thí dụ: Khi ngón tay áp út đứng một mình, chúng ta không thể nói nó là ngắn hay là dài (không tướng ngắn dài). Khi đứng cạnh ngón út, ta thấy nó dài. Khi đứng cạnh ngón giữa, ta thấy nó ngắn. Các tướng ngắn dài của ngón áp út xuất hiện khi có pháp khác làm duyên đối chứng. Khi duyên thay đổi, như từ ngón út sang ngón giữa, tướng ngón áp út sẽ thay đổi từ dài sang ngắn. Không riêng gì với ngắn dài, tất cả các tính chất khác cũng đều như thế. 

Pháp dù nương vào duyên để khởi tướng nhưng thực tướng của nó vẫn là tánh không, nên pháp tướng phải vận hành theo luật vô thường

Luật vô thường: Do pháp tánh không, nên pháp tướng phải luôn biến đổi không dừng nghỉ. Vì nếu tại một thời điểm nào đó, pháp có một tướng xác định và nắm bắt được, lúc đó pháp tướng chẳng không, không tương hợp với tánh không của pháp. Đó là lý do lý giải tại sao muôn sự muôn vật hiện nay luôn biến đổi không dừng nghỉ. Do pháp tướng luôn biến đổi, không thường trụ, nên nói “vô thường”. 

Để biến đổi được, tướng mới phải xuất hiện, tướng cũ phải mất đi. Sự mất đi của tướng cũ, gọi là diệt. Sự xuất hiện của tướng mới, gọi là sinh. Do pháp tướng sinh diệt, sinh diệt không dừng nghỉ, nên nói “vô thường”. 

Như huyễn: Hiện tượng pháp tướng biến đổi cực kỳ mau chóng, được kinh gọi là như huyễnLăng-già nói: “Các pháp chẳng thật, chóng diệt như điện, ấy là như huyễn”. 

Y tha khởi: Do duyên là pháp khác, nên pháp Duyên khởi còn được gọi là Y tha khởi. Y tha khởi, là y vào pháp  khác mà khởi. Tướng của pháp Y tha khởi thì như huyễn

Tướng vô tướng: Nhờ duyên mà pháp hiện tướng, tướng ấy lại biến đổi cực kỳ nhanh chóng, không thể xác định, không thể nằm bắt, nên tướng mà vô tướng. Tướng vô tướng là tướng phù hợp với tánh không của pháp. 

Pháp Duyên khởi vì thế mà không phải là có (vì không có tướng xác định), cũng không phải là không (vì pháp vẫn có tác dụng, dù chỉ là tác dụng như huyễn, tức thời). 

Duyên khởi các cặp tương đãi, đối đãi:  Do pháp không thể tự hiện khởi, nên muốn tìm hiểu một pháp chúng ta phải khảo sát cùng lúc hai pháp, là pháp và pháp làm duyên. Cặp pháp và pháp làm duyên này được gọi là cặp tương đãi. Khi hai pháp trong cặp tương đãi ấy là hai đầu của một cặp nhị biên phân biệt, thì nó có tên là cặp đối đãi. Gọi là tương đãi, vì hai pháp này phải đợi nhau, hỗ tương cho nhau mới xuất hiện được. 

Tính chất của cặp tương đãiđối đãi

1/ Hai pháp trong cặp tương đãi thì không phải một cũng không phải khác. Nếu là một, thì không có pháp làm duyên, vì duyên là pháp khác. Không phải khác, vì không thể tách lìa hai pháp này ra khỏi nhau. Nếu tách lìa được thì không cần duyên, pháp vẫn tự hiện hữu được. 

2/ Hai pháp trong cặp tương đãi thì không pháp nào là có hay là không. Nếu có, thì pháp đã tự hiện hữu, không cần duyên. Nếu không, thì pháp kia làm duyên cho gì?     

Có nhiều cặp tương đãi như có-không, tâm-vật, một-tất cả v.v… Ở đây chúng ta chỉ khai triển cặp tương đãi “một - tất cả” qua phần Pháp giới duyên khởi nói sau. 

Một và tất cả, là hai pháp của một cặp tương đãi. Chúng không tách lìa nhau, làm duyên cho nhau để cùng hiện khởi. 

Pháp giới Duyên khởi: Khi một khởi thì tất cả pháp làm duyên cho nhau cùng khởi, tạo thành cõi pháp trùng trùng vô tận (trùng trùng duyên khởi), trong đó một làm duyên cho tất cả (một là điều kiện để cho tất cả pháp hiện khởi), tất cả làm duyên cho một (tất cả pháp còn lại là điều kiện để cho pháp một hiện khởi)[3]. 

Trong pháp giới Duyên khởi, pháp xuất hiện trong sự tương duyên với các pháp khác. Với luật vô thường, pháp trong pháp giới duyên khởi là một dòng chuyển biến trong sự tương quan tương tác với tất cả pháp còn lại trong pháp giới

Hiện nay, nhận thức của chúng ta khá thô thiển, nên chúng ta không thấy được tính như huyễn cũng như tính tương duyên của pháp, nhưng chúng ta có thể tạm nhận ra hai điều trên bằng lý. 

1/ Tính như huyễn: Mọi sự trên đời đang chuyển biến. Sự chuyển biến đó phải mất một thời gian chúng ta mới nhận ra được. Thực ra, sự chuyển biến đó đang diễn ra trên từng sát-na. Nếu tâm thức chúng ta tinh tế hơn, phân biệt được sự thay đổi trong từng sát-na của sự vật, ta sẽ thấy pháp như huyễn. Đây là cái thấy của hàng Bồ-tát. 

2/ Tính tương duyên: Mọi sự trên đời đều nương vào duyên mà hiện khởi. Nhưng ta thường quên mất các duyên mà thấy pháp xuất hiện như có tự tánh riêng. 

Thí dụ

. Với một cục sắt, ta thấy nó có một thể tích và một khối lượng riêng biệt. Thực ra đó chỉ là cái thấy trong điều kiện bình thường hiện nay. Nếu quan sát cục sắt đó trong điều kiệndi chuyển với vận tốt lớn, ta sẽ thấy thể tích của nó giảm đi và khối lượng của nó tăng lên (Thuyết Tương đối). Điều đó cho thấy khối lượng cũng như thể tích của cục sắt thay đổi theo duyên, lệ thuộc vào duyên, không có tự tánh của riêng nó. 

. Nói “nước sôi ở 100°C”. Câu nói đó chỉ đúng trong điều kiện thường. Trong điều kiện áp suất cao hoặc thấp hơn, nước không còn sôi ở 100°C nữa. 

. Đường thẳng được cho là đường ngắn nhất qua hai điểm. Định lý này chỉ đúng với hình học Euclide. Với hình học phi Euclide, đường cong mới là đường ngắn nhất.       

Sắc tướng: Thứ gì chiếm một phần hạn trong không gian,gọi là sắc tướng. Trong pháp giới Duyên khởi thì không có sắc tướng. Do việc “nắm lấy” một số tướng như huyễnsắc tướng hiện ra. Hiện tượng tâm “nắm lấy” một số tướng như huyễn đó, được kinh gọi là “chấp” hay “chấp tướng”. 

Thí dụ: Trong chỗ tối, nếu quay tròn đầu cây nhan đã được thắp sáng với vận tốc lớn, chúng ta thấy một vòng sáng hiện ra. Đây, chúng ta cần lưu ý: Khi đầu cây nhan đến điểm nào, ở đó xuất hiện một chấm sáng. Khi đầu cây nhan qua điểm mới, chấm sáng ở điểm cũ phải mất đi. Theo lý mà nói, chúng ta phải thấy một chấm sáng di chuyển liên tục. Do tâm chúng ta có khả năng lưu giữ hình ảnh ghi nhận được trong một khoảng thời gian, nên thay vì thấy một chấm sáng, chúng ta lại thấy nhiều chấm sáng hiện ra tạo thành một vòng sáng. 

Tam giới duy tâm: Tâm nói đây không nên hiểu là ý thức mà là 8 thức cùng với nền tảng tạo ra 8 thức (bản tâm). Do có sự chấp tướng nơi tâm mà sắc tướng hiện ra

. Nếu trên các sắc tướng ấy, sinh ra ngũ dục thì pháp giới Duyên khởi biến thành Dục giới

. Nếu ly lìa ngũ dục, tâm hết các dục nhiễm, sắc tướng trở nên thanh tịnh thì pháp giới Duyên khởi biến thành Sắc giới

. Nếu diệt hết các sắc tướng thì pháp giới Duyên khởi biến thành Vô sắc giới

Tam giới không lìa tâm riêng có. Nên kinh nói “Tam giới duy tâm”. 

Vạn pháp duy thức:  Thức có hai nghĩa là liễu biết và phân biệt

Liễu biệt, là sự nhận biết sắc tướng một cách rõ ràng trong phần hạn của nó. Tác động liễu biệt đã biến các sắc tướng vốn tồn tại trong tương quan tương tác với nhau thành các sắc tướng tách biệt. 

Trên các sắc tướng tách biệt ấy, nếu khởi lên các so đo suy lường sai khác giữa các sắc tướng thì gọi là phân biệt

Tác động của thức đã biến các sắc tướng thành muôn ngàn pháp sai biệt

Tóm lại, do sự chấp tướng cùng tác động của thức mà pháp giới Duyên khởi biến thành thế giới với muôn ngàn sự vật sai biệt, muôn ngàn pháp sai biệt. Do vạn pháp không lìa thức mà riêng có, nên kinh nói “Vạn pháp duy thức”. 

Tam tánh: là ba tánh Y tha khởi, Biến kế sở chấpViên thành thật.      

. Y tha khởi tánh: Nếu thấy pháp như huyễn là thấy tánh Y tha của pháp. Đây là cái thấy của hàng Bồ-tát Đại thừa.   

. Biến kế sở chấp tánh:  Do chấp tướngsắc tướng hiện ra. Thực tướng của sắc vẫn là như huyễn. Thực tánh của sắc vẫn là không. Nếu cho pháp là có, nghĩa là pháp có một tự tánh riêng xác định được, thì tánh này hoàn toàn không có, chỉ do tưởng mà thành, nên gọi là Biến kế sở chấp tánh. 

 . Viên thành thực tánh: Nếu nơi pháp mà lìa chấp có (lìa tánh Biến kế sở chấp) thì tánh Viên thành xuất hiện. Đây là thực tánh lìa có lìa không của pháp. 

Như vậy, tánh Y tha là thực tánh của Biến kế sở chấp. Tánh Viên thành là thực tánh của Y tha. Bồ-tát trước phải chứng tánh Viên thành thực, về sau mới thấy pháp như huyễn. 

Hai chấp: Nếu cho rằng pháp là có thì gọi là chấp có. Có hai hình thức chấp có

. Nếu cho rằng thân tâm (năm ấm) là có, tức ta là có, ngã là có, thì gọi là chấp ngã

. Nếu cho các pháp bên ngoài là có, gọi là chấp pháp

Hai chướng: là phiền não chướngsở tri chướng

. Sở tri chướng: Việc chấp pháp khiến tâm chịu sự chi phối của kiến chấp có. Do đó sự thấy biết phát ra từ tâm không còn phù hợp với thực tánh của pháp, nên gọi là vọng thấy. Chính cái vọng thấy này đã che đậy cái thấy biết pháp như thật (còn gọi là trí bồ-đề). Tóm lại, do chấp pháptâm không còn thấy được pháp trong thực tánh của nó, nên gọi là sở tri chướng

. Phiền não chướng: Việc chấp ngã làm phát sinh cái chướng thứ hai là phiền não chướng. Do phiền não chướngchúng sinh phải chịu sự trôi lăn trong sinh tử, luân hồi trong tam giới, bị tam giới trói buộc

Do phiền não chướng phải y nơi sở tri chướng mới thành lập, nên nếu có phiền não chướng thì cũng có sở tri chướng. Trong trường hợp ngược lại, nếu phiền não chướng hết thì không có nghĩa sở tri chướng cũng hết theo. 

Phàm phu có đủ hai chấp nên có đủ hai chướng. 

Hàng Nhị thừa lìa chấp ngã, nên không còn phiền não chướng. Do còn chấp pháp nên vẫn còn sở tri chướng

Lý Nhân duyên: Theo lý Nhân duyên, pháp do nội nhân và ngoại duyên mà thành. Tinh thần ấy được hiển bày đầy đủ hơn trong lý Duyên khởi, khi duyên là tất cả pháp trong pháp giới (Tất cả làm duyên cho một). 

Duyên khởi cũng chỉ ra rằng thực tướng của nhân duyênnhư huyễn, thực tánh của pháp nhân duyên là không. Trung luận nói: 

Pháp do nhân duyên sinh 

Ta nói tức là không 

Cũng chính là giả danh 

Cũng là nghĩa Trung đạo 

Pháp nhân duyên sinh thì thực thể là không. Các tên gọi không nói lên được cái thể vốn không có của pháp, nên nói là giả danh. Nhưng các tên gọi đó lại nói lên được cái dụng như huyễn của pháp. Vì thế pháp nhân duyên sinh không phải là có, không phải là không. Đây là nghĩa Trung đạo. 

Thức và trí:  Thấy có thấy không là cái thấy của tình thức phân biệt. Thấy biết lìa có lìa không là cái thấy biết phù hợp với thực tánh của pháp, nên gọi là trí. 

Tám thức và tứ trí: Khi chướng còn thì tâm là tám thức. Nếu hết sạch các chướng thì tâm là tứ trí

Chuyển tám thức thành tứ trícứu cánh của Đại thừa

Bồ-tát với tâm đại bi:Khi thấy được lý Duyên khởi, Bồ-tát nhận ra rằng ta và người không khác, ta và tất cả chúng sinh vốn không hai. Ta không thể hạnh phúc khi chúng sinh đang còn đau khổ. Ta không thể đứng ngoài nỗi đau khổ của chúng sinh. Giải thoát của ta không thể vẹn toàn khi chúng sinh chưa được giải thoát. Thấy như thế nên Bồ-tát phát tâm đại bi muốn cứu khổ cho tất cả chúng sinh, muốn độ tận hết thảy chúng sinh.                     

Trong kinh Lăng nghiêm, sau khi được đức Phật khai thị thấy rõ Bồ-đề cùng đại Niết-bàn của Phật, ngài Anan dù chưa trở về được nơi đó, song đã thấy rõ con đường quay về, nên đã phát nguyện: “Con tuy chưa được độ, song nguyện độ cho tất cả chúng đời mạt pháp”[4]. 

Vì xem sự mê lầm đau khổ của chúng sinh như sự mê lầm đau khổ của chính mình, nên kinh Duy- ma nói: “Vì chúng sinh bệnh nên Bồ-tát bệnh”. 

Vì không thể có sự giải thoát bên ngoài sự giải thoát của tất cả chúng sinh, nên trong kinh Pháp hoa, đức Phật đã chỉ ra rằng sự giải thoát của hàng Thanh văn, dù đã đưa chư vị vào dòng thánh, cũng mới chỉ là hóa thành chưa phải bảo sở

Khi nhận ra thực lý Duyên khởi, Bồ-tát biết rằng thế gian như mộng huyễn, thiên đường vốn như huyễn nên không sinh tâm tham đắm, địa ngục vốn như huyễn nên không sinh tâm ngán sợ. Không cần xa lìa tam giới để riêng tìm giải thoát an lạc cho chính mình. Nhìn lại chúng sinh, do mê lầm nên thấy tam giới là thật, khổ đau là thật, có những khổ đau khó nhẫn chịu, nên Bồ-tát phát nguyện ra vào trong tam giới không kể thời gian kiếp số, giúp chúng sinh thoát khỏi mọi khổ đau. 

Khi nhận ra bản tâm, thấy thể tánh nhiệm mầu vốn sẵn đủ nơi mình, Bồ-tát được sự an vui vô bờ. Nhìn lại chúng sinh, đồng cùng một thể tánh, lại phải chịu nổi trôi trong sinh tử luân hồi, phải nhận vô vàn đắng cay... Do đó, Bồ-tát phát nguyện: “Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, tôi sẽ không thành Phật”. 

Trong kinh Lăng-già tâm ấn, Bồ-tát Đại Huệ đã tán thán đức Phật qua bài kệ

Thế gian lìa sinh tử 

Như hoa đốm hư không 

Trí chẳng thấy có không 

khởi tâm đại bi 

Tất cả pháp như huyễn 

Xa lìa nơi tâm thức 

Trí chẳng thấy có không 

khởi tâm đại bi 

Xa lìa chấp đoạn thường 

Thế gian hằng như mộng 

Trí chẳng thấy có không 

khởi tâm đại bi 

Pháp vốn không sinh không diệt, nhưng chúng sinh do mê mà thấy pháp có sinh có diệt, nên bị pháp trói buộc, thấy tam giới thực có, xoay vần trong tam giới, chịu nhiều khổ nạn. Tâm thức Phật siêu việt nhị biên, không còn dấu vết của các kiến chấp sinh diệt, thấy tam giới như hoa đốm trong hư không, tự tại trong tam giới. Tâm thức ấy thấy pháp y như thật, không rơi vào có - không, nên khởi tâm đại bi, muốn cứu khổ cho tất cả chúng sinh

Pháp vốn như huyễn, nhưng chúng sinh do mê mà thấy tất cả như thực, dính mắc với các pháp, chịu nhiều đau khổ. Phật thông đạt thực tướng như huyễn của pháp, không còn mê lầm, không còn chấp tướng, ly lìa mọi chấp trước, thấy rõ pháp mà không rơi vào có - không, nên khởi tâm đại bi, muốn giải thoát cho tất cả chúng sinh

Khi tâm không còn các kiến chấp đoạn thường, nhìn lại thế gian chỉ như giấc mộng, chúng sinh do lấy mộng làm thực, nên bị thế gian trói buộc, sinh tử luân hồi không có lúc dừng, lại nắm bắt cảnh mộng này, xa lìa cảnh mộng kia. Không biết rằng cảnh trong mộng không có trước sau, không có hơn kém, không có đoạn thường, chỉ do mê mà thấy như thế. Do đó, Phật khởi tâm đại bi, muốn đánh thức chúng sinh khỏi cơn trường mộng thế gian

Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa? Thực  lý vốn như thế, thực tế vốn như thế, nhưng chúng sinh đang khi mê chẳng thể thấy là không. Vì cái chẳng thể thấy là không đó mà đức Phật phải thị hiện trong đời, giáo pháp ba thừa xuất hiện với vô vàn kinh luậnvô lượng các pháp môn, nhưng tất cả đều không ra ngoài thực lý Duyên khởi mà lập.     

Kết luận  

Trên đây chỉ là một sự khai triển đơn giản về lý Duyên khởi, nhằm giúp bạn đọc nhận ra được sự nhất quán của giáo lý nhà Phật, cũng như hiểu hơn về một số khái niệm căn bản của Phật pháp. Một sự khai triển sâu rộng hơn sẽ giúp chúng ta thấy rõ việc hình thành các pháp môn, sự chi phối của giáo lý Duyên khởi đối với các pháp thế gian, đối với khoa học và triết học. Giúp chúng ta có cái nhìn đối với tự thân cũng như thế giới bên ngoài được thông thoáng hơn, việc học Phật càng rõ ràng hơn. 

 


 

[1] Nhị biên phân biệt: Có - không, thiện - ác, tốt - xấu v.v…

[2] Nếu nói về thực tánh bằng một mệnh đề khẳng định, thì tánh ấy đã nằm trong ngôn từ. Không còn là thực tánh của tất cả pháp.

[3] Chúng ta đang khai triển trên tinh thần lý sự vô ngại pháp giới. Nếu đứng trên tinh thần Sư sự vô ngại pháp giới thì phải nói “Một trong tất cả, tất cả trong một”.

[4] Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ, chương III “Rộng để lại khuôn phép tu hành” - Thiền sư Hàm Thị trực giải - HT Thích Phước Hảo dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7993)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7711)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6927)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13800)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7513)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9295)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7833)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7749)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7327)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7710)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7454)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8630)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11056)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15391)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19168)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14863)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8803)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8820)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14625)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15258)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8519)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10961)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11308)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8702)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9061)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19721)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24628)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8782)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9128)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10783)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9002)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7902)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8790)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8266)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7284)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11082)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7364)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8257)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17607)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44184)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45463)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45025)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10594)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8516)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7542)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7566)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7355)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12080)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 8414)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9153)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8080)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8873)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 7986)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8165)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8660)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16334)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7131)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6923)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9621)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23090)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant