Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Phẩm Của Tăng

13 Tháng Giêng 201509:14(Xem: 8777)
Thực Phẩm Của Tăng


THỰC PHẨM CỦA TĂNG


Thích Nguyên Hiệp


khat-thucTrong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận, và thứ đến còn vì những ảnh hưởng của bối cảnh xã hội mà ở đó mỗi truyền thống Phật giáo được truyền vào và phát triển. Trong bài viết này, tôi sẽ không đi vào bàn luận về việc chọn lựa thực phẩm độ nhật của hàng tăng lữ, xem điều nào thích hợp và điều nào không đối với họ, mà chỉ đưa ra một vài lý do vì sao lại có sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm của mỗi truyền thống Phật giáo, và điều này tôi dựa trên hai bản kinh liên quan là kinh Jīvaka và kinh Lăng Già.

Như chúng ta biết, các tăng sĩ theo truyền thống Phật giáo Nam tông phần lớn không theo chế độ ăn chay (trong ý nghĩa ăn chay là chỉ ăn các loại thực vật; vì có nhiều quan niệm ăn chay khác nhau). Đối với các Phật tử theo truyền thống Bắc tông (không phải tất cả) điều này có thể là lạ lẫm, nhưng ở những nước nơi Phật giáo Theravada thịnh hành thì hàng Phật tử không có gì thắc mắc hay ngạc nhiên về điều đó vì nó đã là một truyền thống có từ thời đức Phật, và các sư đã không thay đổi cho dù khi Phật giáo Theravada được truyền bá vào những xứ sở khác nhau.

Trong kinh tạng Pāli, bài kinh đề cập cụ thể đến việc đức Phật cho phép hàng tăng sĩ thọ dụng thịt là kinh Jīvaka (Trung Bộ II, bài kinh số 55). Theo những gì bài kinh này đề cập, các Tỳ-kheo được phép ăn thịt và những thực phẩm được chế biến từ thịt cá mà không có bất cứ sự trở ngại nào, ngoại trừ phải tuân thủ theo một vài điều kiện.

Bối cảnh đức Phật thuyết giảng bài kinh này là nhân có một vị cư sĩ tên là Jīvaka Komarabhacca đến viếng Ngài và bạch rằng, có một số người lên án rằng vì cúng dường thực phẩm cho đức Phật và hàng Tỳ-kheo mà các cư sĩ tại gia đã giết hại thú vật, điều mà theo suy nghĩ của ông là không tốt và có ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của đức Phật. Đức Phật bảo với vị cư sĩ này rằng, sự kết tội như vậy là điều hoàn toàn không đúng với Ngài, bởi vì Ngài không hề khuyến khích người khác vì mình mà sát hại thú vật. Ngài luôn giảng dạy giáo lý từ bi và khuyên bảo hàng đệ tử phải trãi rộng lòng từ đối với mọi loài chúng sanh. Tuy nhiên trước những thưa hỏi của Jīvaka, đức Phật không dạy rằng hàng Tỳ-kheo từ đó trở đi phải dùng thực phẩm chay, mà chỉ dạy rằng bắt đầu từ thời điểm ấy các Tỳ-kheo chỉ được phép dùng ba thứ thịt được gọi là “tam tịnh nhục”: những thứ thịt không phải từ con thú mà người thọ dụng nhìn thấy bị giết, nghe thấy tiếng kêu của nó khi bị giết và nghi rằng nó bị giết vì để dâng cúng thịt cho mình.

Kết thúc bài kinh đức Phật dạy rằng, nếu vị cư sĩ nào, vì Ngài và các Tỳ-kheo mà giết hại thú vật, thì điều đó không những không đem đến cho họ chút phước đức nào mà ngược lại còn làm tổn hại phước đức của họ. Và Ngài còn đưa ra năm nguyên nhân làm tổn hại phước đức liên quan đến việc sát sanh (Xem thêm kinh Jīvaka).

Như vậy, dù không trực tiếp khuyên dạy các Tỳ-kheo nên thọ nhận thực phẩm chay, thì một cách gián tiếp bằng việc dạy rằng việc sát hại thú vật cúng dường thịt cho giới Tỳ-kheo sẽ làm tổn hại phước đức, đức Phật đã khuyên các cư sĩ không nên cúng dường thịt cho người xuất gia. Tuy nhiên, sẽ có người cho rằng nói như vậy là suy diễn, bởi vì việc giết hại thú vật để làm thực phẩm cúng dường và việc cúng dường thực phẩm bằng thịt nhưng không sát hại là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nếu không thì sao đức Phật không dạy là nên cúng dường thực phẩm chay cho hàng xuất giachỉ bảo rằng, việc giết hại thú vật để cúng dườngviệc làm tổn hại phước đức một cách gián tiếp như vậy!

Chúng ta biết rằng, Phật giáo được hình thành ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch. Đó là thời điểm đời sống du mục bị đẩy lùi với sự phân rã của các bộ tộc để nhường chỗ cho việc hình thành các làng mạc và thị thành mới ở Bắc Ấn với kinh tế nông nghiệp và thương mại phát triển. Trong những thế kỷ trước khi Phật giáo xuất hiện, đại bộ phận dân chúng ở Bắc Ấn chưa có thói quen ăn chay do vì ảnh hưởng đời sống du mục, và khi kinh tế nông nghiệp và thương mại phát triển, đời sống định cư ổn định, dù chế độ ăn uống có phần thay đổi, họ vẫn còn giữ lại những tập tục và thói quen ăn uống của mình trước đó.

Tại thời điểm Phật giáo xuất hiện, Ấn Độ cũng là mảnh đất có nhiều tôn giáo sinh hoạt. Bên cạnh tôn giáo truyền thống Bà-la-môn, còn có vô số các giáo phái lớn nhỏ khác nhau hành hoạt, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của những phong trào Sa-môn (Samana/Sramana). Những phong trào Sa-môn này gồm những vị du tăng, họ không có một nơi ở ổn định mà du hành từ nơi này đến nơi khác; và thực phẩm độ nhật của họ tùy thuộc vào sự cúng dường của dân chúng ở những địa phương mà họ đi qua. Và hẳn nhiên, họ nhận lấy bất cứ loại thực phẩm nào được cúng dường cho mình mà không đưa ra một lời đề nghị nào. Các nhóm Sa-môn thực ra đã hình thành trước đó vài thế kỷ, nhưng được phát triển mạnh vào thế kỷ thứ VI (tr. TL), và nói chung họ là những người được dân chúng kính trọng.

Phật giáo được xem là một trong số những phong trào Sa-môn vào thời điểm bấy giờ. Phật giáo về phương diện giáo thuyết, giới luật cho tăng và tổ chức Tăng đoàn dù có khác với những phong trào Sa-môn khác, nhưng một vài tập quán của truyền thống này vẫn được đức Phật áp dụng, trong đó có vấn đề thọ nhận thực phẩm bằng việc khất thực.
Tại thời điểm Phật giáo hình thành, dân chúng Ấn rõ ràng không phải đều là Phật tử, cũng không phải đại đa sốPhật tử. Tuy nhiên, với tinh thần tôn kính giới tăng lữ, dân chúng vẫn cúng dường thực phẩm cho các du sĩ dù đó là tăng sĩ Phật giáo hay những vị thuộc những truyền thống khác. Do đó, việc yêu cầu các tăng sĩ nên thọ dụng một loại thực phẩm nhất định nào đó là hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh xã hội (điều có thể khiến họ không nhận được thực phẩm độ nhật). Và vì thế, Phật giáo cũng như các giáo phái khác, ngay cả Kỳ-na-giáo - tôn giáo rất đề cao tinh thần Ahimsa (tránh gây hại một cách triệt để; và ngày nay từ giới tại gia đến xuất gia của tôn giáo này đều ăn chay trường), đều phải thọ dụng bất cứ loại thực phẩm nào mà họ nhận được. Đưa ra luật định “tam tịnh nhục” và khuyên răn rằng việc sát hại thú vật để cúng dường thực phẩm cho tăng là việc làm tổn công đức, đã là một thách thức vào thời điểm bấy giờ.

Khi Phật giáo Đại thừa phát triển, nếp sống tự viện của các tăng sĩ theo truyền thống này có sự thay đổi, theo đó chế độ thực phẩm hàng ngày của giới tăng lữ cũng không còn giống với Phật giáo thời kỳ đầu. Có người cho rằng sự thay đổi chế độ ăn uống trong Phật giáo Đại thừa là do vì ngữ cảnh văn hoá xã hội thay đổi. Tuy nhiên cũng có người cho rằng sự thay đổi đó là vì phải tuân thủ theo những lời dạy trong các kinh Đại thừa, thể hiện việc tôn trọng những học thuyết đang được xiễn dương tại thời điểm đó. Và cả hai lý do này đều này được nhìn từ kinh Lăng Già (Laṅkāvatāra-sūtra).

Lăng Già là một bộ kinh khá quan trọng của Phật giáo Đại thừa, đặc biệt đối với Thiền tông Trung Hoa. Giáo thuyết của kinh này cũng là nền tảng căn bản của Duy thức tông. Kinh Lăng Già gồm có chín chương (bản dịch đời Đường của ngài Thiệt-xoa-nan-đà), đề cao học thuyết Như Lại tạng (tathāgata-garbha). Và chính vì cho rằng “Như Lai tạng” vốn có mặt trong tất cả mọi chúng sanh nên kinh này khuyên dạy rằng phải tránh sát hạiăn thịt thú vật một cách triệt để. Toàn bộ chương tám của bộ kinh được dành để nói về vấn đề này.

Chương này đưa ra những nguyên nhân vì sao người tu hành phải tránh sát hạiăn thịt muông thú: Thịt là thứ do máu huyết ô uế tạo thành, do đó người cầu thanh tịnh không nên sử dụng; tất cả chúng sanh bị xoay chuyển trong vòng luân hồi sanh tử, do vậy việc ăn thịt thú vật có thể là đang ăn thịt thân bằng quyết thuộc và đồng loại; Bồ-tát xem chúng sanh như bản thân mình, nên không thể nào ăn thịt của họ; Bồ-tát tu hạnh từ bi, thương yêu bình đẳng mọi loài chúng sanh, nên không ăn thịt muông thú; người ăn thịt cá sẽ khiến chư thiên xa lánh, và thịt cá là thứ các vị tiên thánh không bao giờ dùng; để giữ tín tâm của người đời, không để họ chê bai nhạo bạng Phật pháp; vì chủ trương một lối sống đạm bạc, vì người ăn thịt sẽ dễ tham đắm vào thực phẩm. Bên cạnh đó, bài kinh cũng khuyên dạy không nên ăn các loại hành tỏi… những loại thực vật được cho là không tốt cho một đời sống thanh tịnh.

Những lý do mà mà bài kinh đưa ra nhằm khuyên người tu hành không nên ăn thịt cá ở trên, một mặt vừa để phù hợp với tinh thần từ bi của đạo Phật và để tương thích với giáo thuyết “Như lai tạng” mà bản kinh chủ trương, nhưng mặt khác cũng phản chiếu quan điểm xã hội vào thời điểm mà bản kinh hình thành: cho thấy rằng tại thời điểm đó vấn đề ăn chay đã khá phổ biến và là chế độ ăn mà các vị tu sĩ của những giáo phái khác đã chọn lựa; và cũng phản chiếu thái độ của dân chúng đối với chế độ ăn uống của hàng tăng lữ.

Chúng ta thấy rằng, trong quá trình hình thành và phát triển của mình, ngoài việc phải tuân thủ những điểm giáo lý cốt yếu, Phật giáo tùy theo thời điểm và quốc độ mà nhiều ít có sự chuyển đổi để cho phù hợp với bối cảnh xã hội và để thuận lợi trong việc truyền bá. Vấn đề tùy duyênthích ứng với ngữ cảnh xã hội là điều từng được đức Phật ứng dụng vào thời của Ngài. Ví dụ như việc thiết lập an cư mùa mưa, chế định ba y cho một vị Tỳ-kheo… đều là những vấn đề thích ứng ngữ cảnh; và ngay cả việc đức Phật cho phép Tỳ-kheo thọ dụng “tam tịnh nhục” cũng không ngoại lệ. Do đó việc đề xướng một chế độ ăn chay cho hàng xuất gia về sau của Phật giáo Đại thừa cũng thừa hưởng tinh thần đó.

Ngày nay, các vấn đề như học thuyết, giới luật của mỗi tông phái, cho đến những điều thứ yếu hơn như y phục, thực phẩm của tăng chúng không còn là những vấn đề gây nhiều tranh luận giữa các truyền thống. Các truyền thống Phật giáo đều hướng đến những điểm chung và tôn trọng nhưng điểm sai biệt của nhau. Tuy nhiên, khi Phật giáo được truyền bá sang phương Tây, và nhất là trong thời buổi hiện tại với những vấn đề xã hội khác nhau được đặt ra, trong đó có cả vấn đề quyền của muông thú, thì vấn đề ăn chay hay ăn mặn lại là đề tài được tranh luận khá sôi nỗi. Ở đây không còn là sự tranh luận giữa các truyền thống Phật giáo, mà là sự tranh luận giữa những người chủ trương ăn chay và những người tán thành việc ăn mặn.

Những người tán đồng chế độ ăn thịt thường lập luận rằng: vấn đề tu tập chính của Phật giáo là đoạn trừ tham, sân, si và phát triển giới, định, tuệ. Thực phẩm thọ dụng chỉ là phương tiện nuôi dưỡng cơ thể để tu tậphành đạo. Ngày xưa đức Phật dùng thịt mà Ngài vẫn đắc đạo. Và trong các kinh điển thời kỳ đầu, không có một đoạn nào đức Phật bảo các Tỳ-kheo không nên sử dụng thịt cá và khuyên bảo họ phải ăn chay cả. Vả lại, cho dù thuần túy sử dụng rau đậu thì vẫn không chắc là không gây nên sát sanh. Vì để có được rau đậu đem bán, người nông phu đã sát hại rất nhiều côn trùng bởi do cày xới đất đai và phun thuốc trừ sâu để bảo vệ mùa vụ. Và có người còn phát biểu cực đoan hơn, rằng ăn chay sự thực không tạo nên được phước lành gì cả, vì đi ngược lại lời Phật dạy, bởi không phải rằng đức Phật đã có lần phản bác Đề-bà-đạt-đa về vấn đề này hay sao!.

Nhưng những người để xướng nên thay chế độ ăn thịt của tăng sĩ thành ăn chay thì cho rằng: ngày nay điều kiện xã hội đã thay đổi, tăng sĩ phần lớn không còn đi khất thực, vì vậy họ cần nên ăn chay để thể hiện đúng tinh thần từ bitôn trọng sự sống của đạo Phật. Thêm nữa, ăn chay là để tiếc kiệm nguồn thực phẩm, góp phần làm giảm bớt việc gây tổn hại môi trường sống. Và, dù là các tăng sĩ không tự tay hay khuyên người khác giết hại thú vật cúng dường thực phẩm cho mình, nhưng thịt và thực phẩm từ thịt cá có được không hoàn toàn là “tam tịnh nhục” nữa khi nó được mua ở chợ mà dụng ý của người ta là giết hại để bán cho người tiêu dùng. Và do vậy dù đức Phật cho phép ăn thịt, nhưng ngày nay để duy trì truyền thống này là không còn phù hợp. Xưa kia đức Phật không cho phép Tỳ-kheo cất giữ tiền bạc, và thực phẩm đều tùy thuộc vào sự khất thực thì việc chọn lựa một chế độ ăn chay là điều không thể. Ngày nay tăng sĩ đã sử dụng tiền bạc, có thể dùng nó để mua thực phẩm cho mình, sao không thay đổi chế độ ăn uống cho phù hợp hơn. Và dù đức Phật không cấm việc ăn thịt, nhưng không có nơi nào trong kinh điển đức Phật khuyến khích việc ăn thịt cả, mà ngược lại bằng nhiều phương tiện Ngài khuyên dạy các Tỳ-kheo nên hạn chế việc sử dụng thịt.

Việc tranh luận như vậy là không cùng, và người ta buộc phải chấp nhận những quan điểm sai khác của nhau. Vấn đề cuối cùng là, thông qua những tranh luận, những người trong cuộc và những người quan sát cần xem xét những gì là phù hợp nhất với tinh thần lời Phật dạy, để từ đó chọn lựa một chế độ ăn uống cho bản thân, cho gia đình và chùa viện.

Sự thực ngày nay, trong giới Phật tử ngày càng có nhiều người trở thành người ăn chay trường, dù họ đang theo những truyền thống Phật giáo khác nhau. Sri Lanka là nước theo Phật giáo Theravada, nhưng ở đó có rất nhiều tăng sĩ cũng như cư sĩ thực hành chế độ ăn chay trường. Phật giáo Tây Tạng vốn không theo truyền thống chay lạt, nhưng khi các tăng sĩ đến những nước khác hành đạothành lập tu viện, nhiều người đã chủ trương chế độ ăn chay. Và hẳn họ đã có sự cân nhắc khi thay đổi chế độ ăn uống như vậy.

Ăn chay hay ăn mặn là một sự chọn lựa. Nó không phải là điều bắt buộc (đối với mọi truyền thống Phật giáo), và do đó chúng ta không thể kết tội lẫn nhau khi đứng ở những gốc độ văn hoá khác nhau. Tuy nhiên ngày hôm nay, vấn đề chọn lựa thực phẩm của giới Phật giáo còn liên quan đến những vấn đề khác như Phật giáo và Sinh thái học, Phật giáoThế giới động vật, v.v.. cho nên việc chọn lựa thực phẩm cần phải được suy nghĩcân nhắc kỹ hơn. Ăn thịt không phải là sát sanh, nhưng nó góp phần vào sự sát sanh, vì người tiêu thụ thịt một cách gián tiếp đã hỗ trợ cho công nghệ sản xuất và chế biến thịt phát triển. Ăn thịt không trực tiếp tàn phá môi trường, nhưng vì có được thịt người ta phải tàn phá rừng nhiều hơn để chăn nuôi (tất nhiên ăn chay cũng phải cần đất để trồng trọt, nhưng diện tích đất đai giảm xuống rất nhiều lần). Và như vậy việc chọn lựa thực phẩm lại liên quan đến một vấn đề khác, đó là đạo đức học.

Để duy trì đời sống của mình, dù là tăng hay tục, trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta đều gây tổn hại đến người khác, đến chúng sanh khác và môi trường sống xung quanh. Một dòng điện chạy qua một chiếc máy tính, để cho một trang web Phật học hoạt động, cũng phải sử dụng một nguồn năng lượng thiên nhiên mà nó có sự tác hại nhất định đến môi trường. Để có được một trang giấy in kinh, chúng ta cũng đã lấy đi một nguồn sống nào đó. Cơm ăn, áo mặc, nhà ở… của mỗi chúng ta không ít thì nhiều đều gây nên những tổn hại.

vì vậy thay vì tốn thời gian cho việc tranh cãi nên ăn chay hay ăn mặn, mỗi người cần xem xét đời sống của mình từ nhiều gốc độ, để từ đó có một thái độ sống phù hợp. Một nếp sống đạm bạc, giản đơn là điều được đức Phật dạy nhiều trong kinh điển, và cũng là điều được các vị tiền bối luôn đề cao và nhắc nhở. Ngày nay nó càng được suy nghĩ nhiều hơn bởi vì đó không chỉ là nếp sống giúp cho người tu sĩ giải thoát bớt những ràng buộc của đời sống vật chất, mà còn thể hiện trách nhiệm của họ đối với xã hội và môi trường thiên nhiên./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19361)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24626)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15742)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37830)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21639)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14407)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12816)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28619)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34383)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32187)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26291)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13413)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26944)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13152)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12315)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12574)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17664)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11324)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10837)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11077)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26853)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18677)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23039)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34547)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32187)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant