Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Tại Nền Tảng Của Thế Giới Hoa Nghiêm

13 Tháng Tư 201521:34(Xem: 8369)
Thực Tại Nền Tảng Của Thế Giới Hoa Nghiêm


THỰC TẠI NỀN TẢNG CỦA THẾ GIỚI HOA NGHIÊM


Nguyễn Thế Đăng


 I. Ba yếu tố nền tảng

amitabhaThực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật. Tỳ-lô-giá-na nghĩa là Đại Nhật, Phổ Quang Minh, Quang Minh Biến Chiếu, Đại Quang Minh Tạng. Thế giới chúng ta đang sống nằm trong thế giới Hoa Nghiêm, và là một phần nhỏ của nó. Thế giới Hoa Nghiêm xuất sanh và hiện hữu trong thực tại nền tảng ấy. Hay nói cách khác, thế giớiPháp thân, Báo thânHóa thân của Phật Tỳ-lô-giá-na.

Thực tại nền tảng ấy cũng là tâm của mỗi chúng sanh, “Tâm, Phật, chúng sanh. Cả ba không sai khác”. (Phẩm Dạ-ma cung kệ tán).

Mọi pháp môn thực hành của kinh Hoa Nghiêm là để ngộ nhập thế giới ấy. Thế giới ấy được kinh gọi là pháp giới, thế giới của pháp. Để thực hành tương ưng với pháp giới Hoa Nghiêm, chúng ta cần biết những phương diện, những đặc tính của nó. Sau đây, chúng ta nghiên cứu ba trong những đặc tính của pháp giới hay thân Phật Tỳ-lô-giá-na. Thiền định, thiền quán về ba phương diện này sẽ đưa chúng ta dần dần đến cái thấy pháp giới Hoa Nghiêm.

  1. Tánh Không:

Ngay trong chương đầu tiên, Thế Chủ Diệu Nghiêm, trong bài kệ đầu

tiên, tánh Không được nói đến như sau:

              Thân Phật phổ biến các đại hội

              Đầy khắp pháp giới không cùng tận

              Tịch diệt, vô tánh, không thể nắm

              Vì cứu thế gian mà xuất hiện

              ….

              Sắc thân tịnh diệu của Như Lai

              Hiện khắp mười phương không gì sánh

              Thân Phật vô tánh, không chỗ y

              Thiện Tư thiên vương quan sát được.

              Âm thanh của Phật vô hạn ngại

              Kẻ đáng được độ thì được nghe

              Nhưng Phật vắng lặng thường bất động

              Nhạo Trí thiên vương chứng môn này.

              Như Lai tịch tịnh vốn giải thoát

              Hiện khắp mười phương không chỗ sót

              Quang minh soi sáng khắp thế gian

              Nghiêm Tràng thiên vương đã được thấy.

Pháp thân Phật Tỳ-lô-giá-na là tánh Không: “tịch diệt, vô tự tánh, không thể nắm, không chỗ y, vắng lặng, bất động, tịch tịnh, vốn giải thoát, quang minh”. Chính vì Pháp thân tánh Không vô tự tánh, vô hạn, không chỗ y như vậy, mà Báo thânHóa thân có thể “phổ biến các đại hội, hiện khắp mười phương không chỗ sót”.

“Vô tánh” tức là vô tự tánh, không có tự tánh, không có hiện hữu nội tại riêng biệt độc lập. Đây chính là tánh Không. “Tịch diệt”, vĩnh viễn tịch diệt, vì không có sự sanh ra, chưa từng sanh ra, hay vô sanh. Tánh Không thì “vô tướng, vô ngại” và do đó hiện hữu khắp mười phương.

Nhưng tánh Không không phải là không có gì hết. Từ nó lưu xuất ra các tướng, hiện hữu trong nó, tiêu tan trong nó. Các tướng, kể các tướng bị định hình bới nghiệp, đều từ tánh Không lưu xuất, nên chúng cũng không có tự tánh, vô tự tánh như tánh Không. Tâm Kinh Bát Nhã nói: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng là như vậy”.

Các tướng chính là tánh Không, vô ngại, vô hạn. Chính vì các tướng vô ngại, vô hạn, cho nên các tướng mới có thể vô ngại với nhau, khiến có một thế giới tướng tướng vô ngại hay sự sự vô ngại, đây là cảnh giới và cái thấy đặc biệt và cao cấp nhất so với tất cả các kinh khác.

Thật ra các kinh khác cũng có nói đến pháp pháp sự sự vô ngại, nhưng đặc biệtkinh Hoa Nghiêm được tập trung và khai triển sâu rộng nhất, cùng với tất cả các pháp môn để đưa chúng ta đến cái thấy pháp giới sự sự vô ngạicảnh giới cao nhất của tất cả những con đường Phật giáo.

Cảnh giới chư Phật vô lượng môn

Tất cả chúng sanh chẳng vào được

Phật tánh thanh tịnh như hư không

Vì khắp thế gian khai chánh đạo.

Mỗi mỗi chân lông của Như Lai

Đầy đủ công đức như biển cả

Tất cả thế gian đều an vui

Thọ Quang vương đây đã thấy được.

Tánh Không ấy cũng chính là Phật tánh: “Phật tánh thanh tịnh như hư không”. Nhưng tánh Không ấy cũng là tánh Như (Kinh Đại Bát Nhã), Chân KhôngDiệu Hữu: “Mỗi mỗi chân lông của Như Lai, đầy đủ công đức như biển cả”.

Thấy trực tiếp được tánh Không là thấy pháp tánh, thấy Pháp thân Phật, đó gọi là ngộ nhập:

              Rõ biết Pháp tánhvô ngại

              Hiện khắp mười phương vô lượng cõi

              Nơi cảnh giới Phật chẳng nghĩ bàn

              Khiến chúng đồng quy biển giải thoát.

              Như Lai ở đời không chỗ y

              Hiện trong các cõi như vang, bóng

              Pháp tánh rốt ráo không khởi sanh

              Thắng Kiến thiên vương được ngộ nhập.

Pháp thân tánh Không ấy không chỗ nào không có, nên bình đẳng hiện diện trước mặt tất cả chúng sanh. Pháp thân ấy là chỗ quy về của mọi pháp môn, mọi tông phái.

              Phật thân cùng khắp đồng pháp giới

              Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền

              Các thứ pháp môn thường dạy trao

              Nơi pháp tự tại hay khai ngộ.

Thấy trực tiếp tánh Không ấy gọi là ngộ, và tiếp tục đi sâu và rộng bằng Bồ-tát hạnh thì gọi là nhập, hay “Nhập pháp giới”.

 

  1. Quang minh:

Phương diện thứ hai để người ta có thể tiếp xúc được với pháp giớiquang minh hay ánh sáng. Cũng trong phẩm thứ nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm này, trang nào cũng có vài chữ quang minh. Chúng ta thấy: “Thần lực của Phật làm cho đạo tràng ảnh hiện tất cả sự trang nghiêm”, “tuôn ánh sáng như mây”, “quang minh của chư Phật”, “tất cả cảnh giới đều hiện trong lưới báu, tất cả chúng sanh nhà cửa đều hiện bóng trong đó”.

Như vậy, bản tánh của thế giới Hoa Tạng này là quang minh hay ánh sáng. Ở đây chúng ta trích ra một số đoạn trong chương thứ nhất, nói về thế giới như là thân Phật Tỳ Lô Giá Na, và thân Phật Tỳ Lô Giá Na như là quang minh. Quang minh với tánh Không là một, bất khả phân.

              Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt

              Quang minh chiếu sáng khắp thế gian

              Không tướng, không hành, không hình bóng

              Ví như mây nổi giữa không gian.

              ………

Pháp vương an trụ cung Diệu Pháp

Pháp thân quang minh soi tất cả

Pháp tánh vô tướng không gì sánh

Hải Âm phạm vương được giải thoát.

Pháp giới là một trường phô diễn của quang minh:

              Như Lai thường phóng đại quang minh

              Trong mỗi quang minh vô lượng Phật

              Đều hiện Phật sự dạy chúng sanh

              Diệu Âm thiên vương đã chứng nhập.

Các đại Bồ tát thì thấy:

Có vị thấy được Phật pháp thân

Vô đẳng vô ngại ở khắp cả

Tánh của hết thảy vô biên pháp

Ở trọn tất cả trong thân ấy.

Có vị thấy Phật sắc thân diệu

Quang minh sắc tướng đều vô biên

Tùy các chúng sanh hiểu chẳng đồng

Trong mười phương cõi đều hiện khắp.

Hoặc thấy Như Lai phóng quang minh

Sáng soi mọi nơi khắp thế gian

Có vị ở trong Phật quang minh

Lại thấy chư Phật hiện thần biến

Có vị thấy Phật phóng quang minh

Từ nơi chân lông tuôn ánh sáng

Thị hiện thuở xưa tu hành đạo

Khiến sanh tin sâu vào Phật trí.

  1. Như huyễn:

Có sự “thị hiện”, “hiện Phật sự”, “hiện khắp”, “hiện trong các

cõi như vang, bóng”, “đều hiện Phật sự hóa chúng sanh”… bởi vì tất cả mọi thị hiện ấy đều là hóa hiện, trên nền tảng như huyễn. Thị hiện mà vẫn “không tướng, không hành, không hình bóng” cho nên hiện mà vẫn giải thoát, vẫn ở trong “cảnh giới định”.

              Phật thân vô tận như hư không

              Vô tướng vô ngại khắp mười phương

              Như huyễn như hóa khắp ứng hiện

              Biến Hóa Âm vương đã ngộ được.

Do vậy, quán như huyễn là một cách để ngộ nhập pháp giới:

              Các môn quán Phật vô sở hữu

              Mười phương tìm cầu bất khả đắc

              Pháp thân thị hiện không chân thật  

              Tịch Âm thiên vương thấy pháp này.

Tính cách như huyễn này cùng với tánh Khôngquang minh khiến có được thế giới sự sự vô ngại, một đặc thù của kinh Hoa Nghiêm:

              Tất cả chúng sanh đều sai khác

              Một chân lông Phật thị hiện đủ

              Bao nhiêu phước đức của chúng sanh

              Trong chân lông Phật đều hiển hiện

              …

              Quang minh chiếu khắp đồng hư không

              Trước các chúng sanh đều khắp hiện

              Trăm ngàn muôn kiếp, các quốc độ

              Trong một sát-na đều hiện rõ.

Đại Bồ tát Phổ Hiền nói trong chương thứ nhất:

Như Lai trang nghiêm cõi rộng lớn

Đồng với tất cả vi trần số

Phật tử thanh tịnh đều khắp đầy

Mưa bất tư nghì pháp vi diệu.

Như trong hội này thấy Phật ngồi

Tất cả vi trần đều như vậy

Phật thân không đến cũng không đi

Bao nhiêu quốc độ đều hiện rõ

………..

Phật ở trong tất cả các vi trần

Thị hiện vô biên đại thần lực

Ba đời vô biên kiếp rộng lớn

Phật trong mỗi niệm đều thị hiện

Ngay chương thứ nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm, qua cái thấy của các Thiên vương, các Thần vương, các Thần chủ và các đại Bồ tát, có ba yếu tố, ba đặc tính của Phật Tỳ Lô Giá Na hay Phật thân hay Pháp giới được nhìn thấy. Đó là tánh Không, Quang minhNhư huyễn. Dĩ nhiên đây chỉ là ba yếu tố chính trong rất nhiều yếu tố khác mà kinh sẽ nói đến.

 

  1. II.               Ba phương diện của pháp giới ở mức độ rốt ráo

Một khi thấy được, ngộ được pháp giới, người ta thực hành đầy đủ Bồ-đề tâm, nguyện, Bồ-tát hạnh, thiền định, thiền quán, trí huệ, từ bi… đến mức sâu rộng đến độ những phẩm tính ấy thành biển, biển Bồ-đề tâm, biển đại nguyện, biển đại hạnh, biển đại định, biển đại bi… Những biển đức tính ấy, một khi đã tròn đủ, cũng chính là biển pháp giới.

Quá trình đi sâu và mở rộng sự chứng ngộ pháp giới như vậy được kinh gọi là Nhập pháp giới. Ở đỉnh cao của việc nhập pháp giới và cũng là đỉnh cao của con đường Phật giáo, chúng ta vẫn thấy ba phương diện tánh Không, quang minhnhư huyễn. Ba phương diện, ba đặc tính ấy trở nên sâu, rộng, và vi tế không cùng.

Phẩm Nhập pháp giới, phẩm cuối của kinh, diễn tả sự hành hương tham học và sự chuyển hóa tâm thức của Đồng tử Thiện Tài. Thiện Tài đã theo lời dạy của đức Văn-thù-sư-lợi để bắt đầu cuộc hành trình từ phương Nam. Để bắt đầu con đường trở về Phật tánh của mình. Cuối con đường, Thiện Tài đã gặp đức Di-lặc, gặp lại đức Văn-thù, và cuối cùng gặp đức Phổ Hiền, mà thân ngài biểu lộ trọn vẹn pháp giới.

Đức Di-lặc cho đồng tử Thiện Tài vào lầu gác Tỳ-lô-giá-na Trang Nghiêm. Lầu gác này biểu lộ đầy đủ pháp giới ở mức độ cái thấy biết của một Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ là đức Di-lặc.

Chúng ta lại thấy ba phương diện tánh Không, quang minhnhư huyễn biểu lộ ở mức độ sâu rộngvi tế nhất.

“Thiện Tài thấy trong lầu gác rộng vô lượng đồng như hư không. Vô số thứ báu làm đất; vô số cung điện, thềm bực, lan can, đường sá, vô số lưới báu chuỗi báu, tất cả đều bằng bảy báu… Thiện Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy. Thiện Tài chứng nhập môn vô ngại giải thoát, tâm vô ngại cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp, tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả lầu gác… Vì trụ trong trí huệ Bồ-tát, vì Bồ-tát Di-lặc gia trì, nên trong chút ít thời gianThiện Tài cho là vô lượng kiếp”.

Khi Thiện Tài hỏi những sự trang nghiêm này từ đâu đến, Bồ-tát Di-lặc nói:

“Từ trong trí huệ thần lực của Bồ-tát mà đến, y nơi thần lực Bồ-tát mà an trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa lìa tất cả. Như Long vương làm mưa, chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy.

Như nơi biển lớn, tất cả các sắc tượng của thế giới đều hiện trong đó. Pháp tánh như vậy. Đây là những tướng của trí biết các pháp của Bồ-tát làm nhân duyên tụ tậphiện ra. Tự tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như ảnh, như tượng, đều chẳng thành tựu.

Này thiện nam tử! Như nhà huyễn thuật làm những huyễn sự: không từ đâu đến, không đi đến đâu. Dầu không đến không đi nhưng do huyễn lực mà thấy rõ ràng. Cũng vậy, sự trang nghiêm này không từ đâu đến, cũng không đi đâu. Dầu không đến không đi, nhưng do học tập sức huyễn trí chẳng thể nghĩ bàn và do sức đại nguyện xưa kiahiển hiện như vậy”.

Tất cả những sự trang nghiêm trong lầu gác Di-lặc, cũng là pháp giới được các bậc chứng ngộ rốt ráo thấy biết, đều hiển hiện trên nền tảng quang minh.

“Thấy chuỗi lưu ly phóng trăm ngàn quang minh đồng thời chiếu sáng”, “Phóng lưới quang minh đại ma-ni vương, hoặc xanh vàng đỏ trắng, hoặc làm thành màu tất cả quang minh”, “Phóng những quang minh nhiều màu”…

Hợp nhất trọn vẹn với cội nguồn pháp tánh tánh Không, quang minh, như huyễn như vậy, Bồ-tát Di-lặc nói với Thiện Tài sự hợp nhất với tất cả pháp giớichúng sanh:

“Thân ta sanh khắp tất cả pháp giới, đồng sắc tướng sai biệt với tất cả chúng sanh, đồng tiếng lời sai khác với tất cả chúng sanh, đồng những danh hiệu với tất cả chúng sanh, đồng những cử chỉ sở thích của tất cả chúng sanh, để tùy thuận thế gian giáo hóa điều phục, thị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh, những sự nghiệp làm ra đồng với tất cả chúng sanh phàm phu. Đồng với tâm tưởng của tất cả chúng sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ-tát mà hiện thân đầy khắp pháp giới”.

 

  1. III.           Pháp giới sự sự vô ngại

Trên nền tảng tánh Không, quang minhnhư huyễn mà có pháp giới sự sự vô ngại. Pháp giới ấy càng lúc càng hiển lộ trên con đường cầu học của đồng tử Thiện Tài. Cuối cùng, gặp đức Phổ Hiền, Thiện Tài chứng đắc rốt ráo pháp giới sự sự vô ngại ở mức độ của một vị Phật.

Nền tảng hay bản tánh của pháp giớitánh Không, quang minhnhư huyễn. Nền tảng hay bản tánh ấy tự thân là vô ngại: tánh Không vô ngại với tánh Không và với hai phẩm tính kia, quang minh vô ngại với quang minh và với hai phẩm tính kia… Bản tánhvô ngại, thế nên các tướng sanh khởi từ bản tánh ấy, hiện hữu trong bản tánh ấy, tan biến trong bản tánh ấy cũng là vô ngại. Các tướng vô ngại với nhau, đó là tướng tướng vô ngại hay sự sự vô ngại.

Sự sự vô ngại bởi vì sự là tánh Không, mà tánh Không thì vô ngại, nên sự này vô ngại với các sự khác trong tánh Không. Sự là ảnh hiện của quang minh, mà quang minh thì vô ngại, nên sự này, ảnh hiện này, vô ngại với các sự khác, các ảnh hiện khác. Sự là như huyễn, mà như huyễn thì vô ngại, nên sự như huyễn này vô ngại với các sự như huyễn khác.

Một mẩu nhỏ của không gian (vi trần) vô ngại, tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp với tất cả các mẩu nhỏ của không gian khác. Một mẩu nhỏ của thời gian (sát-na, khoảnh khắc, một niệm) vô ngại, tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp với tất cả các mẩu nhỏ của thời gian khác. Một mẩu nhỏ của không gian vô ngại, nhiếp nhập với một mẩu nhỏ của thời gian và với tất cả mẩu nhỏ thời gian. Cứ như thế, nhiếp nhập là trùng trùng vô tận.

Do sức đồng thiện căn với Bồ-tát Phổ Hiền, Thiện Tài thấy mười thứ tướng tốt lành, mười thứ quang minh như:

“Thấy bao nhiêu vi trần của tất cả thế giới, trong mỗi vi trần xuất sanh tất cả vi trần số lưới mây thế giới Phật quang minh chiếu sáng khắp nơi.

Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả mây thế giới vi trần số quang minh, khắp pháp giới hư không giới tất cả thế giới, trừ diệt tất cả khổ não chúng sanh, khiến các Bồ-tát sanh đại hoan hỷ. Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả mây vi trần số cõi Phật ba đời…”.

Nơi mỗi lỗ lông, nơi một vi trần chứa tất cả cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, và chứa bất khả thuyết kiếp:

 

              Hoặc xem thấy nơi một lỗ lông

              Đầy đủ cõi trang nghiêm rộng lớn

              Vô lượng Như Lai đều ở trong         

              Phật tử thanh tịnh đều đồng thấy.

              Hoặc thấy trong mỗi một vi trần       

          Có đủ hằng sa quốc độ Phật

          Vô lượng Bồ-tát đều đầy đủ

Bất khả thuyết kiếp tu các hạnh.

 

Pháp giới là đồng nhất (tương tức) và dung thông (tương dung), như nước là đồng nhất và dung thôngmọi nơi, mọi lúc. Phật thì vô ngại nên hiện ở mọi nơi, mọi lúc, như mặt trăng hiện ở khắp nơi có nước:

                   Ví như trăng sáng giữa hư không

                   Chúng sanh thế gian thấy tròn khuyết

                   Tất cả sông ao hiện bóng trăng

                   Tất cả tinh tú đều kém sáng

Một và tất cả tương nhập tương nhiếp:

                   Ở trong một cõi thành Chánh giác

                   Trong tất cả cõi cũng đều thành

                   Tất cả cõi vào một, một vào khắp

                   Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.

Pháp thân Phậttánh Không, quang minh, như huyễn. Khi đạt được pháp thân thì thế giới quanh ta trở thành pháp giới sự sự vô ngại. Pháp thân ấy, pháp giới ấy luôn luôn ở trước mắt chúng ta. Nhưng vì bám chấp tướng chúng ta không thấy tánh Không, vì chạy theo bóng ảnh hiệnchúng ta không thấy được tấm gương quang minh hằng sáng từ đó các bóng sanh khởi, và vì sống trong thế giới sanh tử danh tướng, cho đó là cứng chắc, là có tự tánh, là thật, mà chúng ta không thấy được tính như huyễn, như “mây” của các pháp.

Phật đã chứng đắc hoàn toàn Pháp thân, chứng đắc hoàn toàn tánh Không, quang minh, như huyễn, và do đó sống trong pháp giới sự sự vô ngại:

                   Như Lai thanh tịnh diệu Pháp thân

                   Tất cả ba cõi không gì sánh

                   Vì ngoài đường ngôn ngữ thế gian

Bởi vì tánh phi hữu phi vô vậy.

Dầu không chỗ y mà ở khắp

Dầu đến tất cả mà không đi

Như vẽ trong không, cảnh trong mộng

Phải quán thân Phật là như vậy.

Như thế, đi vào tánh Không, quang minh, như huyễn, tức là đi vào pháp giới Hoa Nghiêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15516)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19360)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24618)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37824)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13477)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13094)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17178)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17386)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21635)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13218)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14401)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12814)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13655)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23398)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34378)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28883)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32185)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26288)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17374)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40512)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26940)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14458)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13253)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13454)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12536)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13148)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11790)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12572)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17661)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12206)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12752)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18435)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13466)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10289)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28894)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25281)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26850)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18673)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23036)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34538)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32181)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant