Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

15 Tháng Tám 201507:36(Xem: 16544)
Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

buddha

Có Hai Câu Hỏi ?

 

1. Phật Chú Có Nên Dịch Nghĩa Không ?

2. Tri Thức, Trí Thức, Học Thức, Khác Nhau Thế Nào ?

 

Nam Mô Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật

1.     Về Mật Chú :

Lúc hồi còn học ở Thừa Thiên, Các ôn Trưởng Lão thường dạy các Thầy các chú không nên ham biết mật ngữ trong chú nói gì mà cứ nghiệm hiểu đề danh của “Chú” là biết hết cả rồi. Chú tâmthọ trì do Tâm cảm tha thiết là Ứng quả rõ ràng. Dịch ra rồi, tất cả mầu nhiệm sẽ biến mất hết.

Thú thật lời dạy chí thiết đó, chúng tôi tuy không dám không tin, nhưng lòng vẫn còn muốn khám phá ! Điều hiểu tất đã hiểu, vì ngay nơi đề danh như : Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắt Sanh Tịnh Độ Đà La Ni”. Đề Danh qúa rõ, “Nhổ bỏ hết cội gốc phiền não chướng nghiệp tất sanh về Tịnh Độ” Gọi tắt là Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.

 

    Mãi cho đến khi có vị sư dịch Chú Bát Nhã :

    Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế Ba La Tăng Yết Đế Bồ Đề Ta Bà Ha…… Rằng Là,

1.Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó.

(Gate, gate, paragate,parasamgate, bodhi svaha!)

English :Gone,gone,gone beyond,gone altogether beyond, bodhi.

France: Allez,allez, allez au-dela,allez completment au-dela, sur la rive du Satori

2. Vượt qua,vượt qua, vượt qua bên kia,hoàn toàn vượt qua,tìm thấy giác ngộ.

3.Đi qua, đi qua,Đi qua bờ bên kia, đã đi qua đến bờ bên kia. Reo vui.

(4). Còn nghe nói mơ hồ :     Bổng nghe ai đó họ ngậm ngùi ! Sao tựa như tiếng gọi “Tiến lên tiến lên..tiến mạnh lên ….vậy !

Thử tụng các lời dịch đó, nếu thấy đó là Tân Học ! Là diệu tụng…hơn đọc ..Yết đế…Cứ tự nhiên.

Tóm lại : Cùng hiểu Bát Nhã Ba La MậtTrí Huệ Đại Thặng là tốt.

    Từ lâu, tôi muốn dịch Chú Lăng Nghiêm, nhưng rồi nhận thấy trong Thần Chú ẩn quá nhiều Mật Nghĩa ! Có khi một chữ mà chữ ẩn còn có năm bảy chữ không lộ. Tôi chợt hiểu.

Phàm ngôn của mình mà dịch chú. Nói ra, chẳng khác gì nhà giáo ngoại mất “tư cách con người”là Đắt Lộ; y nói bập bẹ tiếng Việt chưởi Đức Phật bằng thằng,chưỡi ông bà tổ tiên Người Việt là ma quỷ hồi thời Chúa Trịnh Tráng Nhà Lê ! Chúa Trịnh đuổi, y qua Macau 1652 thì phải.

 Rồi mới đây trên net thấy ca ngợi Chú Đại Bi đã được dịch !?

     TT Nguyên Tạng Chủ Biên Trang Nhà Quảng Đức, thảo luận với tôi về điều nầy, sau đó thì có vài Phật Tử phone hỏi 2 câu hỏi có vẻ nóng bỏng như trên. Về vấn đề có nên dịch Thần Chú Không ? Trả lời không phải khó, nhưng để thẩm thấu ý nghĩa Tôi xin hỏi quí vị : “Khi nói, Não bộ con người, Ngũ Tạng con người, Phổi, Gan, Mật, Tim, Óc vô cùng mầu nhiệm, quí báu Phải không ? Trân trọng quí giá vô cùng, tất cả ai ai cũng hiểu cũng quí, Phải không ? Tò mò muốt biết ?

“ Mổ ra coi chơi ? Banh ra coi cho biết nó quí như thế nào “? Ô Kê ? Được chứ ?! Ha ha ! Tất là, không ai chịu làm chứ  gì ? Để yên như thế ! Quí giá vô cùng tận ! Banh nó ra rồi ? Chèn ôi ! Rụng rời ! Hết  tụng ?!

  Sự kín nhiệm của Phật chú không nên dịch là thế đó ! Đừng chủ quan kết luận rằng, xưa nay các Thầy vì “dốt” nên không ai dịch.

Ai, hân hoan điều đó thì cứ mà hân hoan ! Còn phần lớn, thọ trì nhiều, tín tâm vững là ấn điểm quan trọng cho việc Trì Chú.

   Còn ai muốn chơi trội, là nhơn sư , không biết có giống người cơm nóng sốt không thích ăn, phơi cho nguội khô rồi mới ăn . Tùy ý !? Tụng theo bản dịch như ăn cơm nguội cũng có người thích kiểu ăn nầy.

   Ăn, Sáng Ăn ! Trưa ăn ! Muốn no thì ăn ! Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.

A Di Đà Phật.

2.   Về, -Tri –Trí  -Học /Thức :

TRI THỨC,

Ai đó trong nhân loạivui lòng hướng dẫn, chỉ dẫn, sửa sai cho Người khác,với một cõi lòng thiết tha thành thật, đúng đắn Tận tâm không câu nệ thời gian, một lần hai lần ba lần nhiều lần mà vẫn vui vẻ cho đến cuối cùng; Người hưởng thọ sự giáo dục bang trợ được thông suốt trọn vẹn đúng như pháp. Người Thầy đó là bậc Tri Thức. Bậc hiểu biếtkhông lộ cho ai biết là bậc TRI THỨC.

   Chỉ dẫn, mới một lần, hai lần đã vội càu nhàu sì sạt, đưa người yếu đuối qua đường, người ta ngờ ngạt, chậm chạp thì đã sừng sộ quay tới quay lui. Ỷ lại thông minh, lên bực giảng bị hỏi những câu nan giải thì đỏ mặt giận hờn nói càn thích bậy. Trên lập trường giao lưu với cuộc đời chỉ biết xưng danh như thùng rỗng, tự ái tràn đầy, đã không Tri-Thức, Học thức, Trí thức cũng không, như thế là người không Tri Thức dù cho có thêm bằng cấp học thức gì đó. Nhứ thế, chã có thức nào hết.

 

Trí Thức, Thực luận về Trí Thức, là người có Bản Tánh đặc biệt xuất sắc. nghe những lý luận về nhiều phương diện Họ biết ngay điều đó là đúng hay không đúng . Không có trình độ để cấp bằng cấp Trí Thức, chì có quí kính và ngưỡng mộ.

  Thí dụ, Trong nhiều các trường hợp nhưng đây chỉ áp dụng trường hợp hội luận. để thấy ai là Người Tri-Thức. Người tu, còn có Vô Sư Trí.

Luận giả nói : Trên thế gian nầy mọi loài, mọi thứ, mọi vật, có hình hay không có hình đều do, Một Đấng  có tên là “Tạo Hóa” tạo ra ! Khán thính giả đều vỗ tay (!). Không ai có ý kiến (?)

     Nhưng, người Trí Thức cho đó là Luận giả nói sai.  Tại sao ? Người Trí Thức khẳng định trong thế gian không có Đấng Tạo Hóa ? Đấng tạo hóa chỉ là bịa đặt của danh ngôn ! Hay từ một biện trí thiếu sáng suốt rồi dẫn thành một ẩn kín mưu mô hay đầu tư …sẽ, hay đã xuất hiện.

  Vậy luận lý của Trí thức :

Là, Đấng đó, do đâu mà có ? Ai bày ra ? Đấng đó tự có ? Hay có Cha có Mẹ đẻ ra ! Hay từ hư không xuất hiện có đủ chứng minh chưa?

   Có khi lại dựng đứng lý luận, Tạo Hóa như ông thợ gốm, nhồi đất sắt nặn ra chậu, vung, bình, chén …Đúng thế, nhưng đất sắt, nước, ông Thợ

phải nhờ vật liệu mà ông không tự có. Cũng chỉ là thợ gốm.

Nếu không do đâu mà có ? Thì là nói hoang đưởng vô bằng cớ ! Nếu trưng dẫn có giấy trắng mực đen in ra ! Là do có người in ấn ra ! Vì có sách in ấn ra, nên có Đấng Tạo Hóa thật , Thế thì người in ấn ra giấy trắng mực đen đó chính là Đấng tạo hóa. Đấng Tạo Hóa cũng chỉ là một người bình thường như bao người bình thường khác ? Người bình thường đó lại  có thể sinh sản ra mọi thứ, mọi hình, mọi vật ? Đừng đùa, trẻ nít cười đấy !

Ta thữ lý luận theo logic trí thức. Ông Đấng nầy giả tỉ là người Do Thái đi, đâu có thể sanh ra người Việt Nam được, còn nói chi Tây, Mỹ, Ma-rốc, Tàu mọi v.v…   Nhưng còn lạ lùng quái dị nữa, nào thú vật, Bò Heo Chó…Kể cả làm bão lụt nửa , cũng là đấng ấy làm ra (?) Không có lý nào cái ông Đấng nầy có đủ các hình trạng : Người đẻ ra Người ! Mèo đẻ ra mèo ? Làm gì có chuyện muốn biến gì cũng được. Không đúng đâu bạn! Đừng ép người ta ăn thuốc độc !  Lý thuyết thiên hình vạn trạng trong một “Thể Đấng ” Chỉ có cách đặt kín trong Thần Học mới tạm dấu não loạn mê hoặc để hù kẻ ngu thời tiền sử! Quẹt cây diêm quẹt chúng thất kinh hồn via tưởng có vô số ông thần lửa nằm trong Hộp diêm quẹt !.

        Tà thuyết có vũ lực đến đâu cũng không tấn công làm lộng được Trí của người trí. Người đó đúng là TRÍ THỨC. Trí Thức là như thế.

 

Học Thức,

Học Thức là Từ nơi sự học hiểu theo các lớp có Trường ốc Do Chánh Phủ thiết lập, hay do tư nhân thiếp lập, có thi cử rõ ràng, có chứng minh, bằng cấp, đó là cái thực học, học thức chính gốc của họ, Từ nơi Học. Còn phải nói đúng nghĩa, là phải hiểu thấu tường tậu sự đã học để thực hành không ra ngoài cái hiểu biết của học, nên gọi là Học Thức !

    Còn nửa, Học Thức dù có bằng cấp bảo đảm, nhưng thiếu Trí Thức, tâm địa hẹp hòi, thì có thể đi ngược Khoa Học tin hảo tin quàng bị sa ngã vào Nhất thần hay đa thần giáo dễ như trở bàn tay. Tệ hơn, do thiếu Tri-thức nên cố nổi gân cổ để bao biện che lấp cho nhiều lỗi lầm như nhà viết  con chiên tú gàn chẳng hạn.

Người Học Thức mà có tâm giúp đời, giúp nước, họ có thể gom thu những hiểu biết sáng tạo, phải nói, phải viết đứng sự thật, mở mang cho tiến hóa ! Nếu vọng ngọai, tà tín gồng gánh thêm vào cái biến thức phi nhân nghĩa đạo đức bôi nhọ chính cái bằng cấp “Thực Học” của mình ! Trịn lên bằng cấp là những tôi tớ của Thực dân. Thành ra kẻ tồi trên dòng khoa bảng.

 

Do thiếu Học thức, nên ở đời thường lầm ! Rồi lại hay chê : Ông ấy có bằng cấp có học thức mà sao “Ngu” quá vậy. Có những lời chê quá đáng như thế là vì không chịu hiểu kỷ hai chữ Học Thức.

  Phuơng Tây có câu: “Cái ngu cửa người Học-thức, Ngu hơn cái “Ngu”

Của người không học thức”. Nên rõ ràng, Ông nầy ổng đậu bằng Kỷ Sư Cầu Cống, thì ổng là học thức về cầu cống, ổng đâu cỏ thể vào nhà thương mỗ xẽ người bịnh đau ruột được ! Phải không ?

Ông nầy ổng là BS Toàn Khoa, Bịnh gì ổng cũng hiểu, ổng trị bá bịnh, những ổng vẫn tin ông Trời là vạn năng, đó là tự ổng có đức tin không hướng theo lối văn minh khoa học, ổng không thèm phân biệt tà và chánh thế thôi, dù ổng cũng là văn minh khoa học?  Không Nên chê trách vào cái bằng cấp của người ta được.

 Trên đời nầy tự do muốn tin những gì mà Người có Trí không TIN. Thì nên tìm vào Thần Học. Tóm lại, học thức chỉ “Hơn” người không học thức mà thôi. Tuy nhiên, Người có bằng cấp mà đủ Trí, đủ Tri, là Người Toàn Vẹn. Đó là Người Học Thức xứng đáng.

   Quan trọng hơn và thú vị hơn là nhà Học ThứcNhân Bản ! Nhà học thức nầy sau giờ làm việc về nhà “Chào Cha Mẹ Con Mới Về” ! Tiếng gọi “CHA MẸ” thiêng liêng nhất chỉCha Mẹ Ruột ! Còn thằng cha ngoại lai tuyệt đối không bao giờ gọi ! Trừ phi nhân thêm hai chân.

Đó là Học Thức Nhân Bản.

Kính Chào bái chư vị Tri Thức.

 

   

Viết tại Chùa Bảo Vương, Mùa An Cư PL 2559

  HT. Thích Huyền Tôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19363)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24628)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15744)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37830)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13104)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21639)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12818)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28625)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28885)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32187)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12004)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26292)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17378)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14525)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34482)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13113)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13415)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26946)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14462)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13257)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12540)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13154)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12317)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11799)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17665)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12997)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11325)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12152)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10839)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11082)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28900)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25284)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18677)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23040)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34551)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32190)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant