Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngũ Uẩn Giai Không

15 Tháng Năm 201619:00(Xem: 8533)
Ngũ Uẩn Giai Không
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

Truyền Bình

Ngũ Uẩn Giai Không

Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không. Trong bốn từ này có ba từ dễ hiểu, không cần giải thích, mọi người đều có thể mường tượng ý nghĩa của nhóm chữ, chỉ có từ Uẩn là khá khó hiểu.

Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn bao gồm : Sắc (vật chất, matter, material); Thọ (cảm giác, perception); Tưởng (tưởng tượng, imagination) ; Hành (chuyển động, motion); Thức (nhận thức, phân biệt, conciousness, alaya, discrimination).

Chữ uẩn mang hàm ý tích hợp, là tập hợp của nhiều phần tử để tạo ra một hiện tượng ảo hóa. Bởi vì hiện tượng ảo hóa đó kéo dài và con người không có cách nào để phát hiện tính cách giả tạo của hiện tượng nên lầm tưởng là thật, và từ lầm tưởng đó mà sướng khổ một cách vô căn cứ. Tất cả mọi sướng khổ đều là vô căn cứ bởi vì nó dựa trên tưởng tượng. Tưởng tượng này kinh điển Phật giáo gọi là thế lưu bố tưởng tức là tưởng tượng đã phổ biến qua nhiều đời ở thế gian. Nguyên lý của vấn đề này nằm ở chỗ kinh điển gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính, tất cả mọi tính chất của pháp là do tưởng tượng gán ghép của con người. Dễ thấy nhất là ngôn ngữ, từ ngữ của của bất cứ ngôn ngữ nào đều không có ý nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người gán ghép cho từ ngữ. Tương tự như vậy, tất cả mọi vật trong vũ trụ đều không có thực chất, mọi tính chất đều do chúng sinh gán ghép cho vật. Đó cũng chính là ý nghĩa của ngũ uẩn giai không. Khoa học thế kỷ 20 đã xác minh vấn đề này qua cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới, là Niels Bohr và Albert Einstein mà tôi sẽ đề cập ở phần sau.

Uẩn đầu tiên cũng quan trọng nhất là Sắc (vật chất).

Nó quan trọng tới nỗi có rất nhiều người, từ triết học gia cho tới khoa học gia, xây dựng cả một chủ nghĩa duy vật (materialism), họ cho rằng nền tảng duy nhất của vũ trụ vạn vậtvật chất. Vật chất tiến hóa từ vô cơ (inorganic) cho tới hữu cơ (organic). Từ hữu cơ cho tới sinh vật đơn bào, sinh vật cấp thấp, sinh vật cấp cao, rồi con người có bộ não, từ bộ não mới phát sinh ý thức.

Tuy nhiên sinh vật tiến hóa luận của Darwin đã bị phản bác rất nhiều trong thế kỷ 20, sang thế kỷ 21 hầu như nó đã bị bác bỏ hoàn toàn bởi vì có nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy không có tiến hóa. Hóa thạch con dế cách nay 125 triệu năm cũng giống hệt con dế hiện nay. Theo thuyết tiến hóa thì các giống loài phải ngày càng nhiều vì nó phân nhánh, nhưng thực tế khảo cổ cho thấy các giống loài đồng loạt xuất hiện rất nhiều trong kỷ Cambri, rồi sau đó ít dần, một số bị tuyệt chủng, số còn lại cũng không hề có tiến hóa gì. Các mắt xích hóa thạch để chứng minh sự tiến hóa từ con vật tới con người không có đầy đủ, nếu có cũng không chứng minh được một cách rõ ràngliên tục.

Ngay cả vật lý học cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bởi vì khi người ta đi tìm hạt vật chất đầu tiên thì không thể khẳng định được. Mô hình chuẩn của vật lý hạt (Standard model of particle physics) nêu ra 17 hạt cơ bản, nhưng chúng đều là hạt ảo, không thể độc lập tồn tại, chúng là trừu tượng khi bị tách riêng, cô lập. Tất cả chúng đều có thể quy về lượng tử nhưng lượng tử là một hạt trừu tượng tuy có công dụng nhưng không có thực thể. Điều đó chứng tỏ công dụngảo hóa, là tưởng tượng chứ không phải thật.

Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

Có những thí nghiệm khoa học chứng minh rằng vật chất không độc lập tồn tại, nó là một sự tưởng tượng của tâm thức, chỉ hiện hữu trong tâm thức, bản thân vật chất chỉ là sóng vô hình không phải vật chất, nó là tiềm thể, là một cấu trúc ảo, từ những hạt ảo mà thành. Điều này thì trong kinh điển Phật giáo có nói rất rõ. Kinh Hoa Nghiêm nói : nhất thiết duy tâm tạo一切唯心造
Đây là thí nghiệm nổi tiếng về hai khe hở :

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Dưới đây là cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Bohr nói rằng các đặc trưng của hạt photon như vị trí, khối lượng, điện tích, số spin không có sẵn, không xác định cho tới khi có người quan sát đo đạc nó. Còn Einstein thì cho rằng hạt photon lúc nào cũng có sẵn đặc trưng, những đặc trưng đó lúc nào cũng xác định dù có ai quan sát đo đạc hay không. Kết quả năm 1982 tại Paris, Alain Aspect đã làm thí nghiệm chuẩn xác, nó chứng minh rằng Bohr đúng, Einstein sai. Điều đó chứng tỏ hạt photon là do tâm thức tạo ra. Chi tiết xin xem trong video sau :

Tranh Luận Giữa Bohr Và Einstein Về Cơ Học Lượng Tử

Sắc tức thị Không thì những Uẩn còn lại cũng đều là không

Thân thể tứ đại bằng vật chất của chúng ta đã là không, thì cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể cũng như cảm giác tổng hợp của ý thức cũng chỉ là tưởng tượng. Đều đó có nghĩa Thọ cũng là Tưởng (tưởng tượng). Hành (chuyển động) chỉ là điều kiện để phát sinh ảo hóa, nếu không có chuyển động thì cuốn phim chỉ là những tấm ảnh bất động. Chính sự chuyển động tạo ra thế giới sống động. Cuối cùng Thức là sự nhận biết, sự phân biệt để tạo ra sự tưởng tượng phong phú đa dạng. Chức năng chính của Thức là phân biệt, phân biệt từ những sai biệt nhỏ nhặt nhất như thứ tự, đến những sai biệt về số lượng, về vị trí trong không gianthời gian. Vũ trụ vạn vật là do Thức tạo ra, bởi vì nếu không phân biệt thì vũ trụ chỉ là tánh không trống rỗng không có gì cả. Thế giới hiện hữu là do tưởng tượng, tưởng tượng muốn cho phong phúthuyết phục phải dựa trên lượng tử, lượng tử là trừu tượng, chỉ là sóng tiềm năng không phải vật chất, nhưng qua sự hoạt động đồng bộ của 8 thức thì lượng tử biến thành thế giới muôn màu muôn vẻ trong đó có thế gian, thiên đườngđịa ngục. Tất cả chỉ là tưởng tượng nhưng chúng sinh bị kẹt cứng trong tưởng tượng đó, cảm thấy sướng hay khổ là do thói quen tưởng tượng của chúng.

Có những kẻ đánh bom liều chết tự nguyện, chúng cảm thấy như vậy là sướng thích, là hết mình phục vụ cho niềm tin của mình về một chủ nghĩa Hồi giáo thống trị thế giới. Có những tu sĩ Tây Tạng tự thiêu, tuy đau đớn thể xác nhưng sướng thích về tinh thần, họ cảm thấy như vậy là hết mình phục vụ tổ quốc dân tộc chứ không nghĩ đó là sự bạo hành đối với bản thân, sự vi phạm giới luật cấm sát sinh dù là tự sát. Có những quan tham vơ vét của công rồi bị kết án tử hình, nhưng thâm tâm vẫn bằng lòng chấp nhận vì đã tẩu tán được một số của cải cho thân nhân của mình.

Có những ca sĩ, diễn viên, nổi tiếng, giàu có, tự hào vì thành công và khối tài sản to lớn của mình, cho rằng như vậy là sướng, là tài năng của mình, chứ không nghĩ rằng đó chỉ là phước báo, hết phước thì tài sản tiêu tan chẳng mấy hồi. Có những người lao động nghèo khổ, kiếm không ra tiền, sống đói rách, đã vậy còn bị bệnh tật nan y và tai nạn, bèn cho rằng cuộc đời mình là quá khổ, cũng không hiểu rằng đó là nghiệp chướng của mình.

Những cảnh đời sướng khổ, chuyện yêu đương, con cái, kiếm tiền, của hàng tỉ người trên trái đất còn được dựng lên thành hàng vạn phim ảnh, chiếu suốt ngày đêm trên các đài truyền hình tại khắp các quốc gia. Tức là thế gian vốn đã là tưởng tượng, người ta lại tưởng tượng thêm thành tưởng tượng cấp hai của phim ảnh phẳng, bây giờ người ta lại dựng thêm phim 3D thành ảnh nổi 3 chiều có phụ thêm một số cảm giác như gió, nước, rung lắc, đó là tưởng tượng cấp ba.

Tóm lại, thế gian điên đảo mộng tưởng, mọi người sống với sự sướng khổ tưởng tượng của mình mà không biết. Nhiều kẻ cảm thấy quá khổ, quá tuyệt vọng, bèn tự tử. Còn có những kẻ khác cảm thấy đời sống vật chất của mình quá đầy đủ đến mức thừa mứa, đâm ra nhàm chán, không biết làm sao cho có hứng thú, bèn chạy theo những cuộc đua tranh về quyền lực, làm sao cho thành công trong kinh doanh, giàu có nhất thế giới, có quyền lực bậc nhất, chi phối cả chính quyền. Khi đạt được rồi cũng chán, bèn đem tiền lập quỹ từ thiện.

Đức Phật đã giác ngộ, giác ngộ là tánh biết vô sinh pháp nhẫn, còn có tên gọi là chánh biến tri, biết hết mọi điều ẩn kín của thế giới khắp không gian thời gian, biết rõ nguồn gốc mọi sướng khổ của chúng sinh đều chỉ là tưởng tượng vô căn cứ, không có chút gì là thực chất, nên nói rằng ngũ uẩn giai không, đó là một lối thoát cho tất cả mọi bế tắc của con người, nó có khả năng giải quyết được tất cả mọi khổ ách.

Hôm nay là ngày đầu năm mới dương lịch 2016, và nhân năm mới âm lịch Bính Thân sắp tới, tôi xin mượn một bài ca để nhắc lại lời Đức Phật nói trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng là nội dung ý nghĩa của bài này.

Bài Ca Tánh Không – Huệ Phổ Pháp Sư – Việt dịch

Xin chúc tất cả mọi người rửa sạch tất cả mọi phiền não, tự do tự tại.

Truyền Bình
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13208)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19364)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24631)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15744)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37831)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13105)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17182)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17389)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21640)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13222)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14408)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12819)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13659)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28626)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28885)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32188)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12005)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26292)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17378)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14525)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34483)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13114)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12280)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13415)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26946)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14462)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13257)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13463)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12540)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13154)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12318)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11799)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12576)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17667)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12208)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12755)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18438)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14292)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12998)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11325)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12152)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10840)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11082)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28908)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25284)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26854)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25773)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18678)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23041)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34553)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32190)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant